Translate

Thứ Tư, 25 tháng 3, 2015

70 năm nhìn lại nạn đói tháng 3 năm Ất Dậu (1945-2015)

Nạn đói năm Ất Dậu 1945

BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Năm Ất Dậu 2005 đánh dấu 60 năm chẵn, kể từ khi nạn đói khủng khiếp xảy ra vào đầu năm Ất Dậu 1945. Vi nạn đói khủng khiếp đó xảy ra trong khung cảnh thế chiến II nên không một tài liệu nào được lưu lại. Ngay cả số người chết đói cũng không để lại một dấu vết thống kê nào.  Những ý kiến của các học giả ghi nhận dưới đây phần lớn phát xuất từ ký ức họ hay nghe những người đáng tin cậy kể lại. Tất cả những vị nầy lúc thiếu thời đã kinh qua nạn đói đó. Và những điều họ trích dẫn – nhất là tổng số người chết đói - mức độ chính xác đến đâu cũng không thể kiểm chứng được.

Cả miền Bắc Việt-Nam lúc bấy giờ – khoảng cuối năm 1944 đến giữa tháng 5 năm 1945 – đã phải gánh chịu quốc nạn nầy. Số người chết đói ước độ trên dưới hai triệu người, so với khoảng gần hai mươi lăm triệu đồng bào lúc bấy giờ, tức gần một phần mười dân số. Riêng đối với Bắc kỳ vào thời điểm đó có trên sáu triệu dân: như vậy tỷ lệ số người chết đói lên đến một phần ba. Ai là người chịu trách nhiệm về tội ác ghê gớm nầy?

Thi sĩ Bàng Bá Lân (1) đã ghi lại cảnh chết đói kinh hoàng đó như sau:
 
“Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì…đói!”

Trong thiên hồi ký ngày 12-11-2004 (2) viết tại Dayton, Ohio, giáo sư Đỗ Hữu Nghiêm đã ghi nhận:

Kỷ niệm 60 năm nạn đói khủng khiếp 1945 mà dân chúng Việt-Nam ở đồng bằng Bắc kỳ phải gánh chịu, chúng ta cũng nên ôn lại sự kiện đau thương đó đối với số phận đất nước trong bối cảnh Thế Chiến II (1939-1945).  Ngoài nạn đói, cộng đồng Việt-Nam còn phải chịu biết bao tai ương khác như một cổ đôi tròng (Pháp-Nhật), các lực lượng phe phái kháng chiến tranh giành ảnh hưởng, bom đạn khắp nơi của các bên lâm chiến (quân đội Đồng Minh và Phe Trục), mối đe dọa hằng năm của cảnh lụt lội và vỡ đê ở hệ thống sông Hồng. Có lẽ trong lịch sử, chưa bao giờ dân Việt lại chịu một tai nạn thảm khốc như thế về số người tử nạn và qui mô của vùng bị tai nạn.

Nếu nói trận đói năm Ất Dậu là một tai nạn nhân văn, chết người tập thể vô tiền khoáng hậu cũng không ngoa, vì có lẽ chỉ thua kém những thiệt hại về nhân mạng và tài sản của cuộc chiến hai phe Quốc-Cộng từ năm 1945-1975, trải dài 30 năm. Nhưng về số người bị nạn xảy ra trong một thời gian kỷ lục thì sự kiện Nạn Đói năm Ất Dậu vẫn độc nhất vô nhị cho đến nay.

DIỄN TIẾN QUI MÔ NẠN ĐÓI

Tình hình chung ở miền Bắc Việt-Nam

GS Lưu Công Thành cho biết những tháng đầu năm 1945, trên các nẻo đường chính ở những đô thị lớn tại miền Bắc, hằng đoàn người già trẻ, lớn bé thất thểu dắt dìu nhau đi cầu thực, tất cả chỉ còn da bọc xương…Ở một vài nơi có Hội từ thiện tổ chức phát cháo cứu trợ, nhưng có người nhận cháo rồi vẫn lăn ra chết vì quá kiệt sức! Thật là một cảnh tượng thương tâm…

Thời điểm xảy ra nạn đói nhằm vào mùa đông nên cứ mỗi đêm sáng ra lại có thêm rất nhiều người là nạn nhân của tử thần. Người chết nhiều đến nỗi Sở Vệ Sinh và Bệnh Viện thành phố phải thuê xe bò đi hốt xác và cho nhiều đơn vị tư nhân đấu thầu việc nầy. Hậu quả là dân chúng một số nơi đó gần như giảm đi quá nửa, một phần chết đói tại sinh quán, một phần bỏ làng ra đi rồi không bao giờ trở về nữa.

Tất cả dẫn đến tình trạng thiếu hụt sức lao động và ruộng canh tác bỏ hoang rất nhiều. Chăn nuôi cũng bị ảnh hưởng nặng, gia súc (kể cả chó) không còn bao nhiêu do bị giết chết để lấy thịt! Thậm chí có một số câu chuyện kể lại đã có hiện tượng bắt cóc trẻ con để lấy thịt. Một nhân viên tại Sở Cảnh Sát Hải Phòng thừa nhận như vậy, tuy nhiên chính quyền không xét xử công khai vì sợ lòng dân hoang mang.

Những người đói rách đi nhan nhản kiếm ăn vì thiếu đồng ruộng canh tác, thiếu lúa gạo, rồi dần dần chết lả vì đói ở các cánh đồng và đường làng khắp nơi trong các tỉnh phường xã làng xóm ở nông thôn và thành phố. Có nơi, người đói còn vào cướp phá kho chứa lúa gạo của người giàu trong làng. Ngoài người cư ngụ sinh sống từ trước tại vùng đồng bằng miền Bắc, còn có nhiều người từ miền Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đi ra ăn xin.

Nạn đói ở Hà Nội

Theo GS Đỗ Hữu Nghiêm thì tại Hà Nội, nhiều xác người chết đói nằm ngổn ngang trên các đường phố. Mỗi sáng sớm người ta phải đem xe bò chở những xác chết đó đi chôn. Có người đi ăn xin, đói lả giữa phố, đêm đến, nằm dựa lối cửa ra vào hay bờ tường các căn phố. Nhiều người sáng sớm vừa mở cửa thì xác chết đổ kềnh sang một bên, có khi ngã lăn vào phía bên trong nhà, khiến người nhà kinh hồn khiếp vía!

Ở Tràng Tập Hà Nội có khoảng 120 chú chủng sinh, các chú được nhà trường cho ăn mỗi ngày chỉ có một bữa tạm no với môt chén cơm đầy, còn hai bữa kia, ăn cháo với cám xay. Có chú tuy đói, nhưng cũng không chịu ăn cám, vì khó nuốt, đã đổ đi hết. Thực ra Ban Giám Đốc Tràng Tập cho các chú ăn cháo với cám, vì muốn cho có đủ chất bỗ do cám mang lại.

Tình hình đói ở Hà Nam

Tại quê quán của GS Đỗ Hữu Nghiêm là làng Hòa Khê, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam, khu vực giáp ranh với huyện Phú Xuyên tỉnh Hà Đông, cách Hà Nội 45 cây số, bày ra cảnh thương tâm của những người đói ăn, thiếu ruộng cày, phải đi lang thang xin ăn. Khi không thể xin ăn được, người đói lả nằm ngã lăn bừa bãi khắp nơi ở giữa hay bên đường, trên đồng ruộng, trước cửa nhà, đủ kiểu mòn mỏi, rồi chết tất tưởi trong tình cảnh tứ cố vô thân, rách rưới. Số người chết đông đảo đến nỗi chôn không xuể, khiến bị nhiễm trùng và có nơi đã bị ôn dịch.

Ở bên kia con sông đào đầu làng Hòa Khê, nối sang đồng ruộng là Tè Mũ, Mai Trang, Thần Nữ có một cây cầu tre. Rất nhiều người chết la liệt ở cả hai bên sông.  Những người còn khỏe mạnh rủ nhau đi sang bên đó thu lượm những xác chết còn lại, đào vội một hố lớn không sâu lắm ở cạnh cầu và đem chôn vùi như ma đuổi trong chiếc hố tập thể. Trong số đó có cả những người còn ngắc ngoải, chưa chết hẳn, còn rên lên: “Đừng chôn sống chúng tôi, để chúng tôi chết hẳn đã”. Bất chấp những lời than vãn đó, những người còn khỏe mạnh cứ lấp đất vội vàng trên những thân thể còn chút hơi sống đó và tiếng kêu chỉ tắt hẳn cho đến khi những tảng đất định mệnh bên bờ sông được lấp đầy!

Hình ảnh đó ám ảnh đám trẻ con nhiều tháng trời và mùi hôi trong nấm mồ tập thể xông lên…đến tận giấc mơ hãi hùng trên giường ngủ, trong những câu chuyện rùng rợn hù dọa nhau trên cửa miệng mọi người hằng ngày. Những người giàu tưởng tượng còn đe dọa nhau, kể chuyện nghe thấy những tiếng khóc nỉ non rưng rức của oan hồn những người bị chôn sống mỗi lần đi qua cây cầu tre vắt ngang qua con sông đào cô quạnh đó.

Cũng đầu cầu tre bên làng, có một thanh niên gần chết nằm im lìm đầu xóm ngay giữa ngã ba đường vì không còn hơi sức cử động. Đám trẻ tinh nghịch trong làng chạy đến xúm xít bu quanh xem người nằm đói đang hấp hối. Đó là một thanh niên còn trẻ nhưng trông như một ông già, quần áo tả tơi, rách nát, nhăn nheo, chỉ còn da bọc xương, để lộ cả phần thân mình phía dưới. Một đứa trẻ tinh quái, nghịch độc, bẻ một cành tre rồi đâm thọc. Thân thể đáng thương kia chỉ giật giật nhè nhẹ, chắc có vẻ đau đớn mà không phản ứng gì được. Một chú bé đứng gần đó bịt mặt, với đôi mắt đỏ hoe sợ hãi vội quay đi, chạy trốn về nhà.

Cảnh đói ăn ở Thái Bình

Giám Mục Bùi Tuần kể lại (3): chiều hôm ấy, đi bộ từ Thái Bình về Thượng Phúc. Đường vắng, thỉnh thoảng gặp những thân người tuy ốm o, lê bước, ngẩn ngơ, mệt mỏi, đi kiếm ăn. Họ đi một mình hay đi chung gia đình, tìm bới kiếm ăn ở những đám cỏ hay những đống rác bụi cây.

Đến gần một bờ sông, Giám Mục Bùi Tuần thấy ba người gầy guộc nằm bất động. Một phụ nữ trẻ tuổi tuy đã chết, tay vẫn còn ôm đứa con nhỏ cũng đã chết, nhưng miệng vẫn còn ngậm vú mẹ. Một người đàn ông trẻ tuổi nằm sát bên đứa nhỏ đã chết, nhưng tay anh như đang cố với tìm chiếc chiếu rách cạnh bên, để đắp cho vợ con. Anh ngấp ngoái chết!

Theo GS Lê Văn Lăng, vào thời điểm đó Thái Bình được mệnh danh là “vựa lúa” của miền Bắc với những cánh đồng “cò bay thẳng cánh, chó chạy cong đuôi”. Nhưng trớ trêu thay, chính ở trên mảnh đất phì nhiêu đó, cái đói đến với tầng lớp “lê dân” mới thật dữ dội kinh khiếp nhất, vượt quá sức chịu đựng bình thường của con người. Tất cả những gì ăn được người ta đã ăn hết rồi, đến lượt gia súc chó mèo cũng phải “hy sinh” cho bao tử của chủ.

Sau khi không còn gì bỏ vào bụng nữa, người dân lam lũ bắt đầu ùn ùn kéo nhau vào trung tâm thị xã với áo quần rách rưới. Có người gần như trần truồng, vì đã bán những bộ áo quần lành lặn để đổi lấy gạo ăn. Cái đói cái rét như cắt thịt thúc giục họ tiến bước về phía trước. Những người đói quá lả gục xuống để rồi không bao giờ trỗi dậy nữa. Hai bên đường, thây người chết đói ngã ra như rạ. Dù vậy, họ vẫn đổ xô về thị xã Thái Bình bất chấp một vòng đai linh tráng bao quanh khu vực thị xã ngăn cản.

Thời điểm đó, GS Lê Văn Lăng dạy học ở trường tư thục Pascal. Hôm nào đến trường, giáo sư cũng nhặt được hai ba xác trẻ em đã chết cóng từ đêm trước và cùng với học sinh, mang đi chôn sau trường.

Nạn đói ở Kiến Xương

Một hôm, GS Lê Văn Lăng đi qua Kiến Xưong, bắt gặp một người đàn ông có dáng dấp lực điền đang gánh một gánh khá nặng, phía trên đậy một chiếc nón lá rách. Bỗng nghe có tiếng như âm thanh của trẻ sơ sinh. Thì ra trong thúng có khoảng chục em bé mới sinh còn đỏ hỏm mà vài đứa đã chết. Người đó gánh chúng từ một vùng làng xa xôi định đến Duyên Hà gởi cho các bà phước từ thiện chuyên nuôi trẻ em mồ côi ở cách đó ba mươi cây số. Nhưng nhà nuôi trẻ đã đóng cửa từ lâu!

Tại chợ Kiến Xương lúc bấy giờ, rất nhiều xác chết nằm la liệt, trong số đó có một phụ nữ đã chết không biết từ bao giờ, nhưng đứa con vẫn còn sống, đang bám vào ngực mẹ mà bươi bươi đôi vú một cách cuống quýt rồi nhai lấy nhai để không thôi. Sau đó vài giờ em bé cũng chết, để theo kịp mẹ về nơi chín suối hầu thoát khỏi cuộc đời khổ đau nầy!

Một bữa nọ GS Lê Văn Lăng có dịp đi ngang qua Cầu Bo thấy có vẻ khác lạ ở đầu cầu, người ta tò mò đến xem. Thì ra có khoảng ba bốn gia đình đang luộc thịt những người hàng xóm để ăn, xương tay xương chân vứt ngang bên cạnh!

Ban đêm mùa đông rét mướt lạnh lẽo, thỉnh thoảng nghe tiếng ré lên của trẻ con. GS Lê Văn Lăng phóng vội ra ngõ với cây đèn bão trên tay, bắt gặp xác đứa trẻ bị người lớn hút máu nóng với que tre cắm trong cuống họng.

Cảnh phát bánh chưng ở Thái Bình

Một ông phú hộ trong vung giúp cho nhóm từ thiện của GS Lê Văn Lăng mười tạ gạo nếp để gói bánh chưng phát cho những người đói ăn, nhân dịp Tết nguyên đán 1945 gần kề. Rồi có nhiều người tham gia, kẻ góp của, người giúp công… để làm việc lợi ích cho cộng đồng. Chiến dịch “làm và nấu bánh chưng” thu hút hơn 500 người tự nguyện gói bánh chưng và đã “sản xuất” được hơn 6.500 bánh mà mỗi bánh nặng khoảng một kilô.

Sau khi công việc nấu bánh chưng hoàn tất thì chuyện nhỏ “phân phát bánh” cho những người thực sự đói ăn đã trở nên một vấn đề nghiêm trọng. Người ta nghĩ cách đem bánh chưng ra khu nghĩa địa rồi chỉ mở hé cổng cho từng người vào thôi. Người nào được phân phát bánh chưng sẽ đánh dấu + trên tay. Ban đầu công việc có vẻ suông sẻ và trật tự, vì chưa có nhiều người biết.

Nhưng độ nửa giờ sau, thật quá đỗi kinh hoàng khi nghe thấy tiếng chạy của hàng ngàn người từ các làng lân cận kéo đến, vừa chạy vừa la: “Phát bánh chưng chưa! Phát bánh chưng chưa!” với âm thanh ồn ào và náo nhiệt chưa từng thấy. Họ leo tường vào nghĩa địa một cách chóng vánh. Rồi hàng nghìn người chen chúc dẫm đạp lên nhau và dẫm lên cả bánh chưng. Tiếng người gọi nhau ơi ới lẫn tiếng khóc thét của trẻ con trong khu vực nghĩa địa mênh mông đó.

Khi đám đông rút đi, dưới mặt đất nào là bánh chưng bị dẫm đạp nát nhoẹt, có vài ba xác trẻ em bị chèn đè dẫm đạp đến chết. Khi còn lại vài bánh chưng người ta phát cho các em quá đói, gầy gò trần trụi đứng ngoài giơ tay xin. Chúng vồ lấy ăn ngấu nghiến cả lá gói.

Lúc bấy giờ các nhà giáo phải nhờ đến ông Đốc Quýnh là một viên quan trông coi về giáo dục toàn tỉnh Thái Bình. Sáng hôm sau, ông Đốc Quýnh đóng bộ veston cà vát cẩn thận có batoong bên cạnh, còn bà vợ thì mặc áo dài. Hai người đi trên hai chiếc xe kéo rất sang trọng và chất lên mỗi xe độ 50 bánh chưng rồi lên đường trực chỉ các làng xa xôi ở ngoại thành. Khi chỉ đi ra ngoại thành được non nửa cây số, xe của quan Đốc và phu nhân bị đám đông níu kéo lại.

Khi nghe tiếng la réo: “Phát bánh chưng! Phát banh chưng!” vang lừng từ đầu thôn đến cuối xóm, quan Đốc điên tiết lên, dùng batoong phất lia lịa vào đám đông để mở đường. Nhưng xe vẫn không thể nào tiến đi được vì bị bao vây bởi hàng trăm con người rách rưới đói khát đã lâu ngày. Họ dẫm đạp, chen lấn, dày xéo lên nhau để cướp giật bánh chưng.

Khi tàn cuộc “phát bánh chưng bất đắc dĩ”, hai chiếc xe kéo sang trọng đã bị gãy nát thảm thương. Hai ông bà quan Đốc thì quần áo rách bươm, măt mày bùn đất bê bết ngao ngán lắc đầu. Bánh chưng thì rơi nhão nhoẹt lẫn với bùn đất. Anh đánh xe thì mặt mũi bầm tím, cọng thêm xác vài ba đứa trẻ kiệt sức vì bị dẫm đạp trong cơn hỗn loạn. Kể từ hôm đó không ai thấy tăm dạng ngài Đốc Quýnh đâu nữa.

Tình hình nạn đói ở Ninh Cường

Ninh Cường cách Trung Linh, Bùi Chu khoảng hai mươi cây số đường bộ, nằm ở giữa vùng Đồng Bằng Bắc Việt. GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết, theo lời kể lại của linh mục Vũ Minh Thái: ở Nhà Chung Ninh Cường lúc đó mọi người chỉ được ăn một bữa. Trên nhiều đường trong bờ ruộng làng, Nhà Chung cùng với dân làng đựng lên nhiều lều tranh tạm trú cho những người từ các làng quê kéo đến xin ăn. Lúc đó quân đội Nhật, dưới áp lực súng ống lưỡi lê, ra lệnh cho tất cả các nông gia phải đóng thuế bằng hiện vật, tức phải gánh hết thóc trong nhà đổ vào các kho chứa của nhà nước.

Có cả trăm người lết đến khu vực Nhà Chung Ninh Cường tạm trú trong các lều tranh bên vệ đường có dựng lều. Nhà Chung cho nhà bếp nấu cháo, phân phát cho những người đói ăn. Có người ăn được bát cháo hôm trước thì hôm sau lăn đùng ra chết. Người chết xếp chồng lên nhau cả hàng chục hàng trăm không đếm cho xiết.

Người trong làng, ai còn khỏe mạnh thì thường rủ nhau ra cánh đồng đào những hố lớn rồi ném chôn vùi xác chết xuống vội, lấp đất sơ sài, vì số người chết quá đông chôn không kịp. Mùi hôi thối của xác chết bốc lên nồng nặc mấy tháng trời.

Một kịch bản thảm thương, nghịch lý, nhưng lại rất khoa học xảy đến trước sự chứng kiến của những người còn cơ may sống sót, nhất là các nông dân: các vụ trồng lúa năm sau lại tươi tốt và thu hoạch nhiều vô số kể hơn bao giờ hết, chắc nhờ nhiều xác chết đã thối rữa thành phân bón hảo hạng cho đồng ruộng ngập nước!

Nếu người Nhật Bản còn thống trị châu Á Thái Bình Dương sau ngày 15/8/1945, thì chính họ phải trở thành những kẻ khai thác xác người tinh vi tàn bạo chẳng khác nào quân phát xít Đức khai thác các mạng người trong thế chiến thứ II ở các trại giam và lò thiêu người bên châu Au! Ngày 28/01/2005 vừa qua đánh dấu 60 năm chẵn kể từ ngày 28/01/1945 là ngày mà quân đội Đồng Minh đổ bộ lên Âu châu để giải phóng dân chúng nói chung và nhất là người Do-Thái nói riêng khỏi nạn diệt chủng do bọn quân phiệt Đức chủ xướng.

NGUYÊN NHÂN XẢY RA NẠN ĐÓI NĂM ẤT DẬU 1945

Theo nhiều tài liệu nghiên cứu và phân tích về các nguyên nhân dẫn đến nạn đói năm 1945, người ta thấy có nhiều tình tiết phức tạp.

GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết trong bối cảnh thế chiến II, nạn đói xảy đến với Bắc Kỳ vào đúng lúc cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra quyết liệt, nhất là khi quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương từ năm 1941 với những toán quân tuần tiêu từ Trung quốc xung đột với quân Việt Pháp ở đồn Tà Lùng, cửa ngõ vào Lạng Sơn, từ năm 1940. Nếu chiếm đóng Lạng Sơn, con đường vào sâu trong đồng bằng miền Bắc Việt Nam kể như bỏ ngỏ. Từ Lạng Sơn, người ta chỉ cần di chuyển 120 cây số là đến Hà Nội, trung tâm điểm vùng Đồng Bằng Bắc Việt.

Ngoài ra Quân Phiệt Nhật buộc nông dân phải nộp hết thóc lúa theo lệnh “Thiên Hoàng” rồi lại cưỡng ép phá hoại trồng lúa trong vụ Đông Xuân năm ấy để dành đất đai trồng đay làm công sự chiến đấu chống lại quân Đồng Minh. Lại thêm hạn hán hoành hành khắp nơi, đất đai thiếu nước khô nức nẻ ra từng mảng, cây trái xơ xác, ruộng vườn hoang vắng tiêu điều.

Chính các diễn biến chiến tranh tích lũy từ những năm đầu thập niên 1940 cùng với những thiên tai đã đưa đến nạn đói khủng khiếp giết chết ít nhất hai triệu người vào năm 1945, từ phía Bắc miền Trung ra tới Đồng Bằng Bắc Kỳ.

Về phía người Nhật

Đối với GS Trần Gia Phụng, có nhiều nguyên nhân gây ra nạn đói năm 1945 tại Bắc Việt, trong đó nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ chính sách Nhật Bản áp dụng tại Việt Nam trong thế chiến II (1939-1945).

Trong tập tài liệu "Chiến tranh châu Á trong tiềm thức của chúng ta", ông Yoshizawa Minami một người Nhật Bản đã viết:

"...Tình hình khu vực Việt Nam thật đặc biệt do sự có mặt thường xuyên của 80 ngàn quân ta và 200 ngàn lực lượng hậu cần đã khiến tình trạng kinh tế ở đây hỗn loạn đến cực độ...

"...Đông Dương có vị trí then chốt đối với Nhật Bản về lương thực. Ngoài lượng gạo nhập khẩu vào Nhật, quân đội Nhật còn rất cần một trữ lượng gạo lớn lao để tiếp tế cho các mặt trận đang lan rộng khắp Á Châu và khu vực Thái Bình Dương. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp gây nạn chết đói cho hai triệu người Việt năm 1945..."(4)

Theo các GS Đỗ Hữu Nghiêm và Lê Văn Lăng, khi chiếm đóng Đông Dương, quân đội Nhật muốn chọn Việt-Nam, đặc biệt Nam Kỳ, như một bàn đạp hậu cần để tiến xuống vùng hải đảo. Do đó, quân đội Nhật không những tận thu các sản phẩm lúa gạo, cao su và nhiều tài nguyên kỹ nghệ nông nghiệp khác, mà còn bắt nông dân Việt-Nam phải phá bỏ các ruộng lúa mà trồng đay lấy sợi làm bao chứa gạo vận chuyển tiếp tế cho các hải đảo vùng Đông Nam Á như Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan và cả Úc châu nữa.

Còn GS Trần Gia Phụng cho biết vào thời điểm đó, quân đội Nhật hiện diện tại Việt Nam và Đông Nam Á càng ngày càng đông. Do đòi hỏi của Nhật Bản, nhà cầm quyền Pháp ra lệnh một cách độc đoán buộc nông dân phải thay đổi cách thức canh tác, từ độc canh cây thực phẩm, qua đa canh vừa cây thực phẩm, vừa cây kỹ nghệ. Nói cách khác, người Pháp buộc giới nông gia Việt Nam phải bỏ bớt các cánh đồng lúa để trồng bông vải, đay, gai, cây có dầu.

Những cây kỹ nghệ nầy vừa để đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu của Đông Dương vì đường nhập cảng từ Pháp gặp khó khăn, vừa để cung ứng cho thị trường Nhật Bản do áp lực của quân phiệt Nhật. Ngày 4-8-1943, báo Lục Tỉnh Tân Văn loan tin rằng Nhật Bản yêu cầu trồng cây gai ở Bắc Kỳ và dự tính tăng diện tích trồng gai lên tới 10.000 mẫu để có thể sản xuất 2.600.000 chiếc bao gai.

Trong vòng ba năm, diện tích trồng cây kỹ nghệ gia tăng gấp hai trên toàn cõi Đông Dương, từ 88.200 mẫu năm 1942 lên đến 154.517 mẫu năm 1944. Riêng tại Bắc Việt, diện tích nầy tăng hơn gấp hai, từ 18.850 mẫu năm 1942 lên đến 42.546 mẫu năm 1944.

Những hoa màu chính giảm xuống nhiều, vì đất đai phì nhiêu đều dành cho việc trồng các loại cây kỹ nghệ. Dân chúng nông thôn đói khổ đành nhờ vào vài loại thực phẩm phụ để sống qua ngày.

GS Lưu Công Thành cũng cho biết chính phủ Đông Dương bắt các tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình nhổ thóc trồng các cây công nghiệp để cung cấp cho Nhật. Tờ trình của thống sứ Bắc kỳ Chauvet năm 1944 cho biết diện tích trồng các loại cây trên đã lên đến 45.000 mẫu. Làm một phép tính nhỏ thì với diện tích đó người dân có thể khai thác 585.000 tạ thóc (năng suất 13 tạ/mẫu). Nếu trồng thêm khoai, khoai mì thì được thêm 110.000 tạ, tính theo dinh dưỡng thì tương đương 72.000 tạ thóc. Như vậy, 45.000 mẫu ruộng có thể cung ứng 657.000 tạ thóc, đủ nuôi sống 547.000 nhân mạng! Một con số lạnh lùng và tàn nhẫn.

Như vậy, do điều kiện địa lý, ngay chính quốc Nhật Bản đã từng thiếu diện tích trồng lúa gạo. Ở vùng lãnh thổ miền Bắc và Bắc Trung, đồng lúa vốn đã hiếm, phương chi phải chuyển ruộng lúa thành đất trồng đay thì việc thiếu lúa gạo là lẽ tất nhiên. Trong lúc đó, miền Nam Việt-Nam không xảy ra nạn đói. Vì thế, trong khi miền Bắc chết đói thì ở miền Nam có lúc tại Saigon, người ta lấy thóc đốt thay than để chạy máy xe lửa!

Nạn đói bùng nổ từ mùa thu năm 1944 trở đi khi thời tiết xấu làm cho vụ mùa năm nầy tiếp tục bị hư hại. Trong khi dân chúng đói kém, kho gạo của Pháp và Nhật luôn luôn đầy đủ. Kawai, một người Nhật, quản lý kho gạo ở Nam Định, nơi nạn đói nặng nề nhất, đã kể lại:

"Tại một khu nhà thờ Thiên Chúa giáo (Nhật dùng làm kho), gạo chứa đầy ắp trong kho, lại thấy người chết đói ngã lăng dọc đường suốt từ Nam Định lên tới Hà Nội, tôi đã cố thuyết phục tùy viên kinh tế của đại sứ quán Nhật mở các kho gạo đó nhưng họ không nghe..."(5)

GS Trần Gia Phụng còn cho biết thêm: đến tháng 5-1945, người Nhật đã tích lũy một số gạo đủ dùng trong sáu tháng cho Quân đoàn thứ 38 của họ ở Đông Dương. (6)

Về phía người Pháp

GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết người Pháp cũng cần thu quén lúa gạo để nuôi quân và đề phòng bị cô lập với mọi nguồn tiếp tế ở chính quốc bên ngoài. Họ vừa phải thu lúa gạo cho Nhật dưới áp lực của chính quân phiệt Nhật, vừa phải dành lúa gạo cho quân dân chính khu vực mình kiểm soát. Chẳng bao lâu tất cả các nguồn lợi mà Pháp vẫn nhận từ chính quốc ở châu Âu và các nước khác đều bị cắt đứt. Tất cả kho dự trữ lương thực đều không chủ động được dưới sự chiếm đóng kiểm soát của quân đội Nhật.

Theo GS Trần Gia Phụng, thỏa hiệp ngày 19-8-1942 buộc nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương phải xuất cảng sang Nhật trên 1.000.000 tấn gạo hạng tốt nhất trong các vụ mùa 1942-1943.

Để bảo đảm việc thi hành thỏa hiệp nầy, người Pháp lập ra những kho gạo an toàn. Viên thống sứ Pháp ở Bắc Kỳ còn buộc các làng xã phải lập những kho dự trữ tương ứng với sản lượng lúa gạo của làng đó, để có thể đáp ứng yêu cầu của nhà cầm quyền. Trong khi lúa gạo khan hiếm, người Pháp lại mua gạo để trữ trong các kho quân lương.

GS Lưu Công Thành cho biết thêm: do chính sách thu thóc của Pháp: trung bình mỗi năm Bắc kỳ thu hoạch được 1.275.000 tấn thóc (1927-1931) (đã trừ ra 325.000 tấn dùng vào xuất khẩu, nấu rượu và làm giống). Tuy nhiên số thóc này phải nuôi đến 6.500.000 người dân, chưa kể đến năm 1944 lại có thêm 100.000 quân Nhật; bọn chúng lại còn lấy thêm để vận chuyển viện trợ cho lực lượng tại Quảng Tây.

Tháng 7.1945, giá chính thức do Nhật ấn định là 55$ một tạ (giá mua vào của nhà nước), trong khi giá thị trường lên đến 800$ một tạ. Kết quả là nông dân Bắc kỳ nghèo xác xơ, phải bán cả nhà cửa con cái để có tiền nuôi gia đình. Năm 1944, Pháp còn bí mật thu thêm 186.180 tấn để trữ vào kho, làm lương thực khi có chiến tranh Pháp - Nhật.

Ngoài ra GS Lưu Công Thành còn cho biết Pháp cố ý thủ tiêu tinh thần khởi nghĩa của nhân dân bằng kế hoạch thuê nhân công với giá thành rẻ, một khi tại các nông thôn đã không còn đủ ăn.

Desrousseaux đã viết như sau: "Người nhà quê Việt Nam chỉ chịu rời bỏ làng xóm để làm việc khi hắn chết đói nên phải đi tới kết luận lạ lùng này là phương thuốc để chữa sự quẫn bách hiện tại (việc thiếu nhân công ở các đồn điền cao su và mỏ) là phải bần cùng hóa nông thôn, rút bỏ những sự cấp phát, hạ giá nông nghiệp."

Bulletin économique de l'Indochine năm 1944 cho biết: "Người ta vẫn thấy gạo Nam kỳ chở ra tới Vinh, nhưng người Pháp cho tích trữ lại trong các kho ở đó và chỉ cho ra tới Bắc kỳ một số rất ít." Năm đó tại Nam kỳ giá gạo rẻ đến nỗi nhà đèn Chợ Quán phải đốt thóc thay thế cho than đá.

Về phía quân dân kháng chiến Việt-nam

Theo GS Đỗ Hữu Nghiêm, tất cả các lực lượng có xu hướng chính trị kháng chiến – quốc gia và không quốc gia – cũng đều lo tích trữ lương thực hiếm hoi trong tình thế nguy ngập đó, nhất là những lực lượng kháng chiến do phong trào Việt Minh kiểm soát.

Đối với GS Trần Gia Phụng: năm 1945, Việt Minh không phải chỉ khai thác lòng căm thù của người dân Việt để đi theo họ, mà Việt Minh còn là tòng phạm với Pháp và Nhật trong nạn đói nầy làm cho hai triệu đồng bào bị chết. Trong bài "Nạn đói năm 1945", GS Phụng đã trưng dẫn tài liệu để chứng minh điều nầy.

GS Trần gia Phụng cho biết thêm: nạn đói năm 1945 làm cho dân chúng Việt Nam nghèo đói, khổ cực, đã tạo môi trường thuận tiện và thích hợp cho mặt trận Việt Minh vì đã lợi dụng nạn đói do Nhật Bản gây ra bằng hai cách:

Thứ nhất, Việt Minh xúi dân chúng chống đối việc trưng mua lúa gạo, xúi dân đánh phá các kho lúa. Trong cơn nghèo đói túng quẫn, có người bày cho phương cách kiếm gạo để ăn, nên dân chúng hưởng ứng khá đông.

Thứ nhì, lợi dụng việc chính phủ tiếp tế để cứu đói ở miền Bắc, Việt Minh âm thầm chận bắt những chuyến xe hay những chuyến ghe chở gạo từ miền Nam ra, rồi Việt Minh đem tiếp tế cho những mật khu của họ (7).

Trong cơn đói, có người đành phải lên mật khu gia nhập Việt Minh để được chia phần gạo cướp được cho qua nạn đói. Hành động của Việt Minh làm cho việc tiếp tế gạo từ Nam ra Bắc càng trở nên khó khăn. Từ đó, nạn đói càng trầm trọng và Việt Minh càng dễ hoạt động tuyên truyền, kích động quần chúng.

Đặc biệt hơn nữa, sau ngày 2-9-1945, Việt Minh tịch thu toàn bộ tiền bạc của các quỹ cứu đói trên toàn quốc (8), nghĩa là cướp lấy tài sản của những người đang đói, do những người hằng tâm khắp nước giúp đỡ.

Về những trận oanh tạc của Đồng Minh

Theo nhận định của các GS Đỗ Hữu Nghiêm và Lưu Công Thành, người ta không quên được những trận oanh tạc khủng khiếp của Đồng Minh, mà đứng đầu là Mỹ, ngày đêm oanh tạc xuống những địa điểm chiến lược nông công nghiệp trọng yếu để ngăn chặn và phá tan hệ thống giao thông đường sắt và đường bộ, những đường tiến quân của quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản ở Việt Nam, nhất là ở miền Bắc.

Chiến tranh dưới hình thức không lực đã góp phần quan trọng làm đình trệ tất cả sinh hoạt vốn hạn chế ở khu công nghiệp, đồng ruộng và công nông dân đang làm việc tại đó, nhất là những vùng Nhật Bản bắt buộc nông dân canh tác đay và vùng mỏ khai thác than đá, nhằm mục đích tiêu diệt khả năng tiếp viện và cơ sở hậu cần của đối phương.

THAY LỜI KẾT

Công cuộc nghiên cứu nạn đói năm Ất Dậu 1945

GS Đỗ Hữu Nghiêm cho biết đã có nhiều công trình nghiên cứu hay nhiều tài liệu của nhiều tác giả phản ảnh đó đây về tình cảnh nạn đói năm Ất Dậu này ở nhiều địa phương khác nhau.

Tại Sài gòn, Tập San Sử Địa trong một số báo trước 1975 có phổ biến bài viết về “Nạn Đói Năm Ất Dậu (1945)” của Bà GS Tăng Xuân An, phụ trách giảng dậy môn Sử Địa.

Mới đây Viện Sử Học Hà Nội, thuộc Trung Tâm Nhân Văn và Khoa Học Xã Hội Quốc Gia, do Nhóm giáo sư Văn Tạo làm chủ biên, với sự tài trợ của một tổ chức văn hóa Nhật, đã tiến hành một cuộc nghiên cứu hậu kiểm về nạn đói năm Ất Dậu bằng ký ức và phỏng vấn các nhân chứng còn sống ở Hà Nội và những nơi khác ở VN.

Họ đã đưa ra con số người chết đói ở Đồng Bằng Bắc Việt Nam là hơn hai triệu người, mà nguyên nhân chủ yếu là sự chiếm đóng của quân đội Nhật và chính sách sử dụng lương thực cùng ruộng đất của Nhật trong thế chiến II, mặt trận Thái Bình Dương. Dụng ý thực tế của nghiên cứu này là gián tiếp hay trực tiếp, đòi hỏi chính quyền Nhật Bản hiện nay phải hồi tưởng và ăn năn về sự tàn ác của quân dân mình đã làm cho người Việt, mà rộng tay đền bù lại!

Trách nhiệm của người Nhật Bản

Nếu không có những cuộc xâm lược của Phát Xít Nhật và sự thống trị của người Pháp thì đã không có những cuộc oanh tạc, phong tỏa của phe Đồng Minh và có thể chắc chắn nạn đói khủng khiếp đã không bao trùm lên thân phận người Việt sinh sống ở miền Bắc thời đó, tạo thành ký ức tàn khốc qua bao nhiêu thế hệ con cháu Lạc Hồng!

GS Trần Gia Phụng nhận định: Tại Nhật Bản, Hoa Kỳ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống thành phố Hiroshima ngày 6-8-1945 đã giết chết 130.000 người, và quả bom thứ nhì xuống Nagasaki ngày 9-8-1945, giết chết 75.000 người. Số tử vong của cả hai vụ ném bom nầy cộng lại khoảng trên 200.000 người. Thế mà người Nhật ghi nhớ mãi mãi và cho đến nay vẫn còn có người oán hận. So với số người chết trong nạn đói 1945 ở Việt Nam, con số đó mới chỉ bằng một phần mười mà thôi.

Trong bài viết nhan đề "Nhật Bản và chiến tranh Việt Nam" (trong sách Những câu chuyện Việt sử, tập 3, 2002), nhân dịp Tokyo University of Foreign Studies [Đại Học Đông Kinh Nghiên Cứu Ngoại Vụ] tổ chức hội luận ngày 14-1-2002, về đề tài "The Memory of the War: The Vietnam War, which is not a Hollywood Movie" [Hồi ký chiến tranh: Chiến tranh Việt Nam không phải là một phim Hollywood], GS Trần Gia Phụng đã nhận xét:

Dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa, Nhật Bản ký kết thỏa ước với Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 13-5-1959 trả 39 triệu Mỹ kim để bồi thường thiệt hại trong thế chiến thứ nhì, chứ không phải về vấn đề nạn đói, và giúp VNCH vay 7,5 triệu Mỹ kim để tái thiết đất nước. Nhật Bản còn viện trợ cho VNCH xây dựng đập Đa Nhim. Sau năm 1975, theo tin các báo, Nhật Bản giúp Nhà Nước Việt-Nam hiện nay xây dựng cầu Cần Thơ qua sông Hậu, thi hành từ 2001.

Khi kết luận bài đó, GS Trần Gia Phụng đặt câu hỏi: Nhật Bản đã xin lỗi Cao Ly về những bạo hành trong thời gian chiếm đóng và về vấn đề bắt phụ nữ làm nô lệ tình dục trong thế chiến II. Nhật Bản cũng đã xin lỗi Trung Hoa về biến cố Nam Kinh tháng 11-1937 giết hại khoảng 300.000 người.

Tại sao Nhật Bản chưa xin lỗi Việt Nam về nạn đói năm 1945 với hai triệu người chết đói? Tại sao các nhà cầm quyền Việt-Nam - trước cũng như sau 1975 - đã không đòi hỏi Nhật Bản phải xin lỗi Việt Nam như Trung Hoa và Cao Ly đã làm? Có phải vì món tiền viện trợ quá lớn lao từ phía Nhật Bản mà chính quyền Việt-Nam qua các chính thể khác nhau đã im hơi lặng tiếng đối với vấn đề đau thương nầy!

Hãy đốt một nén hương lòng yêu thương, từ bi để khóc than những oan hồn lịch sử này, nhất là trong khi bên trời Âu, người ta đã nhắc mãi đến nhiều trại tù giết người tàn bạo của Đức Quốc xã ở Dachau, Auchwitz, … Ai bồi thường chiến tranh cho cái oan khiên này của dân tộc Việt thấp cổ bé họng!

Nhân dịp Xuân Ât Dậu 2005 trở về, GS Trần Gia Phụng đề nghị các tổ chức người Việt hải ngoại hãy cùng nhau tổ chức lễ tưởng niệm hai triệu người Việt đã từ trần oan uổng trong nạn đói năm Ất Dậu 1945 mà nguyên nhân chính là do con người đã gây ra cho con người, trong đó ba tác nhân chính là Phát Xít Nhật, thực dân Pháp và phong trào kháng chiến Việt Minh.
 
“Ta nhớ mãi cái thời kỳ đen tối!
Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!
Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!
Quên sao được hai triệu người chết đói!” (Bàng Bá Lân).

GHI CHÚ

(1) Bài thơ “ĐÓI’ của thi sĩ Bàng Bá Lân (Tháng năm 1957). (“Thi Nhân Việt-Nam Hiện Đại, quyển thượng, trang 284-288)

(2) Hồi ký Đỗ Hữu Nghiêm viết tại Dayton, Ohio, ngày 12.11.2004, được bổ sung ngày 5/12/2004.

(3) “Một Gặp Gỡ Buồn” của Giám Mục Bùi tuần, đang trên VietCatholic ngày 5/12/2004.

(4) Ngô Thế Vinh dịch và trích dẫn trong bài “Từ At Dậu – 1945 sáu mươi năm đi tới cây cầu Cần Thơ – 2005”, đăng trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 51, tháng 2 & 3 năm 2000, tt. 170-171.

(5) Ngô Thế Vinh, dịch và trích dẫn, bđd. tr. 171.

(6) David G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi tìm quyền lực], University of California Press, Berkeley, 1995, tt. 97-98.

(7) David G. Marr, sđd. tr. 102-103.

(8) Ngô Thế Vinh, bđd. tr. 173.

Tác giả: Nhà Văn Hương Vĩnh (Đỗ Tân Hưng AN49)
Nguồn: http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=18&ia=681

ÐÓI. Thơ Bàng Bá Lân

Năm Ất Dậu tháng ba còn nhớ mãi
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì... đói!
Ðói từ Bắc Giang đói về Hà Nội,
Ðói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp.
Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt
Ðọng chút hồn sắp tắt của thây ma;
Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa
Như muốn bắt những gì vô ảnh.
Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh,
Một làn da đen sạm bọc xương đầu.
Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu,
Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc,
Già, trẻ, gái, trai, không còn phân biệt,
Họ giống nhau như là những thây ma,
Như những bộ xương còn dính chút da,
Chưa chết đã bốc xa mùi tử khí!
Mùi nhạt nhẽo, nặng nề, kỳ dị.
Một mùi tanh lộn mửa thoảng mà kinh.
(Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mình
Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa!)
Những thây đó cứ xỉu dần, tắt thở,
Nằm cong queo, mắt vẫn mở trừng trừng.
Tròng con ngươi còn đọng lệ rưng rưng,
Miệng méo xệch như khóc còn dang dở.
Có thây chết ba hôm còn nằm đó,
Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo...
Rồi ven đường đôi nhát cuốc hững hờ
Ðắp điếm vội những nấm mồ nông dối!
Ðói tự Bắc Giang đói về Hà Nội,
Ðói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm.
Rải ven đường những nấm mộ âm thầm
Ðược đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt.
Có nấm mộ quá nông, trơ hài cốt,
Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không gian,
Sau vài trận mưa nước xối chan chan.
Ôi, thịt rữa xương tan phơi rải rắc!
Tại Hà Nội cũng như bao tỉnh khác.
Những thây ma ngày lết đến càng đông,
Ðem ruồi theo cùng hơi hướm tanh nồng,
Rồi ngã gục khắp đầu đường cuối ngõ.
Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ
Rụt rè xem có xác chết nào chăng!
Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan
Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác.
Xác chồng chất lù lù như đống rác,
Ðó đây thò khô đét một bàn chân
Hai cánh tay gầy tím ngắt teo răn,
Giơ chới với như níu làn không khí
Như cầu cứu, như vẫy người chú ý...
Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi,
Có tiếng cựa mình, tiếng nấc... những tròng ngươi
Nhìn đẫm lệ người chôn chửa chết!
Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệt
Ðược lấp đầy bằng xác chết... thường xuyên.
Ruồi như mây bay rợp cả một miền...
Chết!
Chết! Chết! Hai triệu người đã chết!...


(1957)
(Thi sĩ Bàng Bá Lân sinh tháng 11 năm 1912 tại phố Tân Ninh, Phủ Lạng Thương (Bắc Giang), nhưng gốc làng Ðôn Thư, phủ Bình Lục (Hà Nam). Dòng dõi Nho gia, ông nguyên họ Nguyễn Xuân, mới đổi ra họ Bàng khoảng ba đời. [Theo Viên Linh, tinvasong.com])

Một số hình ảnh: (Nguồn: Võ An Ninh / Bảo tàng Lịch sử Việt Nam)


Trên đường phố tại Phủ Lý (Hà Nam) năm 1945, hai em bé đổ cháo vào miệng bố, nhưng cháo chảy ngược ra ngoài vì hàm răng người bố đã cứng, không khép lại được.


Khi chụp bức ảnh này, nghệ sĩ Võ An Ninh được cho biết, cha mẹ các em đều đã chết vì đói.


Trẻ em mút vỏ ốc thối nhặt được trên đường phố Nam Định.


Đồng bào bị đói từ Nam Định, Thái Bình, Phủ Lý, Hải Phòng, Hải Dương kéo nhau về Hà Nội để xin ăn. Trong lúc ngồi chờ phát chẩn, nhiều người chưa kịp nhận phần đã lăn ra chết.


Đỉnh điểm của nạn đói, tháng 3/1945, xác người chết đói la liệt trên đường phố Hà Nội, không thể phân biệt nam nữ, già trẻ. Tình nguyện viên nhặt được là dồn một chỗ chờ xe đến chở đi chôn.


Tại Hà Nội, xác người chết được tập trung về các góc đường.


Bãi chợ Hàng Da (Hoàn Kiếm), hàng nghìn nạn nhân từ khắp các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương… lê lết xin cứu tế.


Trước chợ Cửa Nam (Hoàn Kiếm), những nạn nhân còn đủ sức cất bước đi thành từng đoàn người về trại Giáp Bát và Viện Tế bần (sau phố Sinh Từ - Nguyễn Khuyến ngày nay).


Nạn nhân đói tại trại Giáp Bát.


Để tìm đường sống, nhân dân nhiều nơi cướp lại gạo, thóc của phát xít Nhật để ăn. Trong ảnh, người dân chặn đường giành lại thóc trên đường Hà Nội - Hà Đông, bị lính Nhật đánh đập dã man.


Quét những hạt gạo rơi vãi trên đường phố Hà Nội.


Xương sọ người chết đói 1945 được xếp lại trong hầm tại nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội. Tác giả Võ An Ninh, người trực tiếp chứng kiến nạn đói, chép lại cảm nhận khi chụp bức ảnh: "Phải chăng những oan hồn này đang lắp bắp tố cáo những cảnh rùng rợn, khủng khiếp, đau thương mà bọn đế quốc Nhật-Pháp đã gây ra cho dân tộc Việt Nam?".


Mùa xuân năm 1951, ngày lễ chôn cất những nạn nhân chết đói 1945 được tổ chức tại hầm hài cốt nghĩa trang Hợp Thiện, Hà Nội.

Nguồn: http://reds.vn/index.php/khoanh-khac-lich-su/8385-hinh-anh-nan-doi-1945










Tác giả bài viết: Tổng hợp

Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2015

Thức Ăn Chay: Dầu ăn

öl

Trên thế giới hiện nay, khuynh hướng về ẩm thực dần dần chuyển hướng qua các thực phẩm không có thịt như gà, vịt, heo, bò, tôm, cá… Đây không phải là một sự chuyển hướng qua ảnh hưởng tôn giáo mà chỉ là một quan niệm ăn uống (diet) để bảo vệ sức khỏe cá nhân, hạn chế hay tránh ăn các nguồn thịt.
Chuẩn bị cho một bửa cơm chay dù theo khuynh hướng nào cũng cần phải cá hai nguyên liệu chính căn bản, đó là dầu ăn (cooking oil),  và đậu nành (soyfoods). Do đó, bài viết nầy có mục đích nêu lên một số thông tin cần thiết về hai nguyên liệu trên để người đọc có thêm dữ kiện trong việc chế biến thực phẩm và  các thực phẩm từ đậu nành.
Dầu ăn là chất béo trích ra từ các nguồn thực vật, dùng để chiên, xào thức ăn, thông thường ở dạng lỏng dưới nhiệt độ trong phòng nấu. Tuy nhiên, dầu dừa là loại dầu bão hòa (saturated) cho nên có dạng “đặt” (không thế nói là rắn (solid) được trong trường hợp nầy). Ngoài ra hầu hết các loại dầu thực vật khác như: dầu olive, dầy đậu nành, dầu hột bí (pumpkin), dầu bắp (corn), dầu hoa hướng dương (sunflower), dầu phộng (peanut), dầu mè (sesame)…dều dưới dạng lỏng dùng trong việc nấu nướng đồ chay.
Dầu ăn còn được cho thêm mùi thơm như các mùi cỏ thơm (herb), hay tiêu, tỏi ngoài mục đích làm tăng hương vị của dầu mà còn dự phòng cho việc tăng trưởng vi khuẩn Clostridium botulinum trong dầu, một loại vi khuẩn sản xuất ra toxin khi xâm nhập vào cơ thể có khả năng làm tê liệt các bắp thịt. (Tuy nhiên, cũng chính toxin nầy nếu dùng với liều nhỏ có thể dùng để chữa trị các bịnh về bắp thịt bằng cách chích toxin, có tên thương mại là Botox, vào nơi bắp thịt có vấn đề).

Mức dinh dưỡng của dầu
Định mức tiêu thụ của dầu trong cơ thể hàng ngày hiện nay vẫn còn là một vấn đề tranh cãi giữa các nhà chuyên môn. Theo FDA, định mức tối đa cho nguồn năng lượng (calorie) hấp thụ vào cơ thể qua các chất béo là không quá 30%. Tuy nhiên một số nhà dinh dưởng (nutritionist) khuyên không nên dùng quá 10%. Ở những nơi có khí hậu lạnh lẽo, mức tiêu thụ chất béo có thể nhiều hơn vì nhu cầu chống lạnh.
Các dầu chứa nhiều chất béo bão hòa như dầu dừa có nhiều nguy cơ làm trụy tim nếu dùng trong một thời gian dài. Còn các dầu chứa ít chất béo bão hòa và chức chất béo không bão hòa (un-saturated) như dầu olive, dầu bắp, dầu hướng dương v.v…thì tốt hơn. Dầu olive có chứa chất béo dưới dạng chỉ có một nhánh không bão hòa (mono-unsaturated) thì tốt hơn cả. Nếu dầu có nhiều chất béo có nhiều nhánh không bão hòa cũng có nguy cơ tạo thành cholesterol như các lạoi dầu bão hòa.
Trong các nhản dán trên mỗi chai đựng dầu bán ngoài thị trường đều có ghi:- tổng lượng chất béo (total fats), – tổng lượng chất béo bão hòa và không bão hòa (saturated và mono-unsaturated fats), – chất béo trans (trans fats) (sẽ nói đến loại chất béo nầy ở phần dưới).
Việc dung hợp các loại chất béo trên đã được các chuyên gia y tế xác định mức tiêu thụ trung bình hàng ngày để duy trì mức tỷ lệ lý tưởng cho LDL/HDL (cholesterol tốt và xấu) trong việc quân bình cơ chế lipoprotein của cơ thể không nằm trong bài viết nầy. Tuy nhiên, một cách tổng quát các loại dầu chứa nhiều chất béo không bão hòa có thể giúp cơ thể giảm lượng cholesterol xấu (LDL) và làm tăng lượng cholesterol tốt (HDL).
Ngoài ra các loại dầu như dầu phộng (peanut oil) dầu hột điều (cashew oil), và một số dầu có nguồn gốc từ hột (hạt) có thề gây ra dị ứng gọi là dị ứng hột (nut allergy) có thể gây ra chứng anaphylactic làm chết ngưới như nghẹt thở, ói mữa, quặng thắt bao tử v.v…

Chất béo dạng trans
Đa số các dữ kiện ghi trên nhản của mỗi thực phẩm ít khi nhà sản xuất ghi lượng chất béo dưới dạng trans nầy mà chỉ ghi hai loại tổng lương chất béo và tổng lượng chất bào bão hòa và không bão hòa trên các nhản dầu ăn, mì ăn liền, các sản phẩm từ đậu nành v.v…
Lý do vì sao?
Vì đây là một loại chất béo có nguy cơ lớn là làm suy các mạch tim, làm giảm lượng cholesterol tốt và tăng lượng xấu lên. Chất béo trans nầy chính là những chất béo đã được nhà sản xuất dầu ăn làm hydrogen hóa từng phần (partially hydrogenated) vào chất béo nguyên liệu, nghĩa là làm giảm bớt các loại chất béo có nhiều nhánh không bão hòa. Mục đích của việc sản xuất chất béo trans nầy là vì trong dầu nếu chứa loại chất béo trên sẽ làm tăng mức độ “dòn” của món ăn như khoai chiên, gà chiên, các loại bột chiên. Nếu không có chất béo trans, các loại thức ăn trên sẽ mau “xìu” khi lấy ra khỏi chảo chiên.
Vì vậy đây là lọai chất béo kịch độc, một loại sát thủ trong dầu nặng ký hơn sự nguy hiểm của chất béo bão hòa nữa, chúng ta cần phải tránh khi chọn các loại thức ăn có dầu.
Nếu trên nhản hiệu không có ghi lượng chất béo được hydrogen hóa từng phần, ta có thể tìm thấy khi làm bài toán trừ giữa hai tổng lượng chất béo trên cùng, ta sẽ thấy ngay lượng chất béo độc hại nầy. Theo một số nghiên cứu gần đây, chất béo trans còn có nguy cơ làm tăng bịnh tiểu đường loại 2 (type 2), ung thư ruột gìà và ung thư vú cho phụ nữ nữa.

Chiên, xào, hay nhúng (deep frying) dầu
öl-bratenNếu làm tăng nhiệt độ của dầu (trong khi nấu nướng), dầu sẽ biến chất thành ra những hỗn hợp độc hại vì dầu sẽ bị phản ứng oxyd hóa. Nếu xử dụng chiên xào và dùng dầu nhiều lần, nguy cơ bị bịnh rất cao như chứng đau khớp và có thể bị trụy thai khi sinh sản.
Dầu có độ sôi cao nhiệt độ 2300C hay 4460F như dầu bắp, dầu mustard, dầu dừa, dầu phộng, dầu hướng dương. Còn các loại dầu như dầu hạnh nhân (almond), dầu nho (grape seed), dầu olive, dầu walnut…có độ sôi 1900C hay 3740F.
Trong khi nấu dầu, khi thấy dầu bắt đầu bốc khói, lúc đó nên giảm bếp lửa lại vì dầu đã bắt đầu sôi và biến chất, được thấy rõ nhứt là hiện tượng đổi màu. Nếu tiếp tục nấu tiếp, qua phản ứng nhiệt, dầu sẽ tạo ra mùi khó ngữi và thấm vào thức ăn đang nấu. Nguy hại hơn nữa, nếu tiếp tục đun nữa, dầu sẽ đạt đến điểm cháy (flash point), nghĩa là chảo hay nồi chứa dầu có thể cháy bùng lên gây ra hỏa hoạn
Dầu trong khi nấu sôi, một số phân tử dầu đã biến thể và chuyển hóa thành hóa chất acrylamide, một hóa chất đã được EPA chứng minh là nguyên nhân gây nguy hại cho chuổi DNA, ảnh hưởng lên sự sinh sản và nguy cơ gây ung thư. Chất nầy hoàn toàn bị cấm hiện diện trong nước uống, nhưng Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) vẫn không đưa ra giới hạn nồng độ của hóa chất trên trong thực phẩm. Theo nhiều kết quả nghiên cứu, acrylamide hiện diện trong khoai chiên có hàm lượng cao gấp 500 lần hơn định mức cho phép của hóa chất nầy có trong nước uống.
Theo thống kê, 30% trên tổng số bịnh ung thư là kết quả của thói quen ăn uống hàng ngày. Có thể acrylamide là tác nhân chính của những chứng bịnh ung thư nầy. Cũng tại một hội nghị của LHQ, các nhà nghiên cứu của phái đoàn Thụy Điển, Na Uy, Anh, Đức, và Hoa Kỳ đều đưa ra những nhật xét tương tự. Hội đồng cũng khuyến cáo rằng các nhà khoa học cần nghiên cứu thêm về nguy cơ của hóa chất acrylamide, một chuyển hóa chất trong dầu nấu sôi, cũng như nghiên cứu thâm sâu và định lượng mầm móng ung thư của hóa chất đó.
Đồng thời, Hội đồng WHO cũng khuyến cáo các nhà sản xuất thức ăn nhanh, đặc biệt là các thực phẩm được chế biến từ phương pháp nhúng trong dầu sôi cần phải cải tổ quy trình sản xuất để hạn chế sự hiện diện của acrylamide trong thức ăn.

Dầu phế thải
Dầu sau khi dùng xong cần phải phế thải đúng phương cách và tiêu chuẩn nếu không sẽ là một nguy cơ lớn cho mội trường. Dầu có tỉ trọng nhỏ hơn nước cho nên nổi trên mặt nước và có thể tạo ra phản ứng oxyd hóa trong nước. Một lít dầu có thể làm ô nhiễm 1 triệu lít nước. Thêm nữa, nếu đổ dầu đã dùng qua theo đường cống, dầu có thể làm nghẹt đường ống qua tính kết dính của dầu. Do đó, đừng bao giờ đổ dầu thừa vào bồn rữa chén bát hay vào bồn cầu. Cần phải giữ lại và chuyển đến các công ty thu hồi dầu để tái sinh (recycling) dùng trong kỹ nghệ xà bông hay biodiesel. Thêm nữa, cũng đừng dùng nước nóng hay xà bông, dầu rửa chén để tẩy dầu mỡ trong bồn rữa vì dầu mỡ sau đó khi nguội lại sẽ bàm vào thành ống nước có thể làm nghẹt ống, mà chỉ dùng giấy lau sạch những nơi có bám dầu, sau đó có thể dùng dầu rửa chén để làm sạch lại..
Theo ước tính 1 lít dầu đổ vào ống cống, thành phố phải tiêu tốn $2.000 để xử lý lượng nước thải có chứa lượng dầu nầy.

Lựa chọn dầu như thế nào?
Tùy theo nhu cầu nấu nướng, nhưng xin khuyên Quý bạn là đừng bao giờ chọn loại dầu có chứa chất béo trans hoặc hydrogen hóa từng phần. Chịu khó coi nhản hiệu và làm bài toán trừ để truy tìm hàm lượng của sát thủ là chất béo trans.
Nên nhớ nhà sản xuất nào cũng quảng cáo là dầu của họ “tốt nhứt”. Do đó, cần phải nhìn kỹ dầu nào cho cholesterol tốt hay xấu.
Các loại dầu ‘xấu” chứa: Chất béo bão hòa, chất béo Trans hay chất béo hydrogen hóa từng phần.
Các loại dầu “tốt” chứa: chất béo đơn-không bão hòa (mono-unsaturated) và chất béo đa-không bão hòa (poly-unsaturated).
Từ hai phân loại trên, chúng ta có thể suy ra một loại dầu nấu ăn “lý tưởng” là dầu có chứa nhiều tỷ lệ chất béo của dầu tốt và ít hay không có chất béo của dầu xấu.
Lời cuối cùng cho bài viết hôm nay trong việc chọn dầu ăn là, bạn nên chọn dầu olive để chiên xào, nhưng không được dùng để nhúng vì độ sôi thấp 3730F. Khi muốn “nhúng”, cần dùng dầu canola, dầu bắp, dầu hướng dương.
Còn các loại dầu cần nên tránh vì chứa quá nhiều dầu trans hay bão hòa; đó là margarine, bơ, dầu dừa (coconut) và các loại shortening dùng trong việc trộn sà lách.
Xin đừng xài dầu dừa vì nó chứa nhiều chất béo bão hòa hơn dầu động vật nữa!
Chúc các Bạn thành công trong việc lựa chọn dầu cho thích hợp với mục tiêu và món ăn chuẩn bị. Chỉ cần một vài phút quan sát và xem kỹ nhản hiệu, Bạn có thể tránh được một số bịnh trong tuổi xế chiều.
Bản đối chiếu các loại dầu dưới đây có thể giúp Bạn có thêm khái niệm về việc chọn lựa trên. Xin Bạn đừng quên làm bài toán TRỪ để tìm ra dầu dưới dạng TRANS.
Cũng cần nhắc thêm Bạn là xin đừng “hà tiện” mà dùng dầu nhiều lần cũng như “để dành” dầu trong một thời gian dài. Bạn tiết kiệm được 1 cent hiện tại, nhưng có thể làm phiền con cháu vì phải mất nhiều thời gian và tiền bạc để lo chữa bịnh cho Bạn sau nầy.
Type of Oil or Fat  Saturated  Monoun-saturated  Polyun-saturated  Smoke point  Uses  
Butter66%30%4%150 °C (302 °F)Cooking, baking, condiment, sauces, flavoring
GheeClarified butter65%32%3%190–250 °C (374–482 °F)Deep frying, cooking, sautéeing, condiment, flavoring
Canola oil6%62%32%242 °C (468 °F)Frying, baking, salad dressings
Coconut oil92%6%2%177 °C (351 °F)Commercial baked goods, candy andsweets, whipped toppings, nondairy coffee creamers,shortening
Peanut oil18%49%33%231 °C (448 °F)Frying, cooking, salad oils, margarine
Safflower oil10%13%77%265 °C (509 °F)Cooking, salad dressings, margarine
Sesame oil(Unrefined)14%43%43%177 °C (351 °F)Cooking
Sesame oil(Semi-refined)14%43%43%232 °C (450 °F)Cooking, deep frying
Soybean oil15%24%61%241 °C (466 °F)Cooking, salad dressings, vegetable oil, margarine, shortening
Sunflower oil(Linoleic)11%20%69%246 °C (475 °F)Cooking, salad dressings, margarine, shortening
Sunflower oil(High Oleic)9%82%9%
 Dầu ăn ở Việt Nam
Việt Nam cho đến nay vẫn kông có thói quen xử dụng dầu ăn có nguồn gốc từ thực vật cũng như sự hiểu biết về các nguy cơ của từng loại hóa chất trong dầu. Đối với họ có được dầu để chiên xào nấu nướng đã là “một hạnh phúc” nhỏ rồi. Mặc dù chúng ta đang ở vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21, nhưng vẫn còn rất nhiều bà con trong nước chạy mua từng muỗng dầu từng ngày. Đó là một sự thực đang xảy ra.
Nhưng dầu đó là dầu gì?
Xin thưa, đó là dầu xuất phát từ nguồn động vật, trọng tâm từ heo và trong vòng 10 năm trở lại đây, dầu được trích ra từ mỡ cá basa tại An Giang, cho nên tên gọi đúng ra là mỡ. Việt Nam cũng có dầu phông và dầu dừa ở những vùng trồng dừa như Bến Tre hay những vùng cao trồng đậu phọng. Nhưng các loại dầu nầy thường chỉ dùng trong việc biến chế các thực phẩm chay vì giá thành mắc hơn mỡ động vật nhiều.
Theo báo chí Việt Nam trong nước, kỹ nghệ làm mỡ (dầu ăn) qua các “cơ sở” chế biến của gian thương đã đạt được “siêu cấp”. Các heo bị bịnh dịch tai xanh từ khắp nơi, nhiều nhứt là được chuyển vận từ Trung Cộng về tận miền Nam để ép dầu (mỡ) và làm thịt chà bông…sau khi khử bằng những hóa chất độc hại trong kỹ nghệ tẩy trắng và nhuộm màu cũng như khử mùi…
Với tình trạng chế biến như vậy, vô tình bà con ăn vào những mầm ung thư mà không biết trong đó nguy cơ do việc vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm và nhứt là nguy cơ  acrylamide xâm nhập vào cơ thể do việc nấu đi nấu lại nhiều lần dầu hay mỡ đã dùng qua.
Xin bà con ở Việt Nam cần lưu ý điều nầy.

Mai Thanh Truyết

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

Những cách chào hỏi độc đáo trên thế giới [Infographic]



Trong khi người Tây Tạng thè lưỡi để bày tỏ niềm vui khi khách tới nhà thì ở Niger, cách chào phổ biến là nắm tay, đưa ngang đầu và lắc lắc.
Tác giả bài viết: Diệu Huyền (theo Twolittlefleas) 

BẢO TÀNG 11/9 DƯỚI LÒNG ĐẤT

Sau 13 năm xây dựng, bảo tàng 11/9 dưới lòng đất, nơi trưng bày khoảng 10.000 hiện vật của vụ khủng bố kinh hoàng vốn cướp đi sinh mạng của khoảng 3.000 người, sẽ chính thức khai trương  tại Manhattan, New York, Mỹ.

Bảo tàng 11/9 được xây dựng dưới lòng đất, tại khu vực từng là nền móng của hai tòa tháp đôi (Twin Towers) thuộc Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) ở New York. 

 
Toàn bộ không gian trưng bày của bảo tàng sẽ khơi lại ngày 11/9/2001, khi những chiếc phi cơ dân sự bị cướp đâm vào Tòa tháp Đôi của Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC), NgũGiác Đài và cánh đồng gần Shanksville, Pennsylvania, làm gần 3.000 người thiệt mạng.

 
Bảo tàng sẽ trưng bày 10.000 hiện vật, 23.000 bức ảnh, 1.900 câu chuyện truyền miệng, các bộ phim và video kéo dài tổng cộng 500 giờ về sự kiện 11/9. 

 
Bảo tàng có diện tích 10.000 m2, nằm sâu 21 m dưới lòng đất. 

Hai cột trụ thép còn lại của tòa tháp đôi cũng được trưng bày tại bảo tàng 11/9. 

Bảo tàng chính thức mở cửa cho công chúng vào ngày 21/5.

Trước khi mở cửa phục vụ khách viếng thăm, bảo tàng sẽ dành thời gian 6 ngày để tưởng niệm các nạn nhân, bắt đầu với một buổi lễ có sự tham gia của Tổng thống Mỹ Barack Obama.

Trong thời gian 6 ngày, bảo tàng sẽ đón tiếp người thân các nạn nhân và những người có liên hệ với công trình. 

Bức ảnh ghi lại cảnh một trong 2 tòa tháp của WTC sập xuống sau vụ tấn công. 

  
Một trong những động cơ thang máy của tòa tháp đôi.

Ảnh các nạn nhân được trưng bày trong bảo tàng. 

Những chiếc xe đạp bị hư hỏng từng đậu tại khu vực phía Bắc của WTC vào ngày xảy ra vụ tấn công. 

Chiếc loa mà cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush sử dụng để nói với các nhân viên cứu hộ và công chúng tại Khu vực số Không (Ground Zero) vào ngày 14/9/2001.

Một gọng kính và hộp đựng được tìm thấy trong đống đổ nát tại WTC. 

Đôi dép trên máy bay của hãng hàng không American Airlines bị không tặc.

Bảo tàng cũng trưng bày một chiếc máy tính xách tay mà tên khủng bố Ramzi Yousef, kẻ bị kết án trong vụ đánh bom WTC năm 1993, từng sử dụng.

Một xe chữa cháy được sử dụng để đưa các nhân viên cứu hỏa tới hiện trường sau vụ khủng bố.

Khu vực cầu thang bộ, nơi nhiều người năm nào đã đi để tìm cách thoát khỏi tòa nhà đang sập xuống.

 
Một chiếc mũ từng được nhân viên sở cứu hỏa New York sử dụng khi tham gia cứu hộ sau vụ tấn công. 

Bảo tàng dưới lòng và quảng trường tưởng niệm sự kiện 11/9 bên trên nó có tổng chi phí xây dựng lên tới 700 triệu USD.