Translate

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

10 hiện tượng kỳ lạ trên bầu trời

Ngày càng xuất hiện rất nhiều hiện tượng tự nhiên kỳ lạ và hiếm thấy.
Ảnh hưởng do biến đổi khí hậu toàn cầu dường như ngày càng nghiêm trọng. Băng tan tăng đến mức đáng báo động khiến mực nước biển dâng cao. Thời tiết ngày càng hanh khô, điển hình như ngày khô kéo dài 75 ngày ở vùng duyên hải Bắc Mỹ. Chính vì vậy mà ngày càng nhiều cáchiện tượng tự nhiên kỳ lạ xuất hiện.

Cơn mưa cá
Những câu chuyện về cơn mưa xuất hiện các vật thể lạ bắt đầu được biết đến từ thế kỷ 1 sau Công nguyên với cơn mưa ếch rơi trên trời xuống. Vào năm 1794, binh lính Pháp chứng kiến một cơn mưa toàn cóc nhái. Ngày nay, ở nước Cộng Hòa Honduras còn trải nghiệm hiên tượng Lluvia de Peces: Cơn mưa cá xuất hiện hàng năm ở Yoro, Honduras trong hơn một thế kỷ.


Người ta nghĩ này là do vòi rồng nhưng giả thiết này không được chấp nhận vì nguồn cá gần Yoro nhất cách tới 200km nên vòi rồng không thể đi xa được như vậy. Một giả thiết khác đó là do giao mùa khiến cá phải di chuyển tới vùng nước ngầm và khi có mưa lớn, cá sẽ bị cuốn theo, cuối cùng mắc lại trên cạn khi nước rút. Một vài người lại tin rằng thầy tu người Tây Ban Nha Father José Manuel khi chứng kiến cảnh nghèo đói của con dân Yoro đã cầu nguyện cho họ và sau 3 ngày 3 đêm, cơn mưa cá rơi xuống như sự cứu vớt người dân nơi đây.

Lỗ mây: U.F.O – O.F.R
Người dân Stockson, CA nói rằng họ đã thấy một lỗ hổng lớn trên bầu trời và cho rằng đó là do đĩa bay của người ngoài hành tinh nhưng thực tế thì đó chỉ là một thứ gọi là lỗ mây.
Các đám mây Cirrus – mây ti tích chứa nước siêu lạnh không thể đông cứng nếu không có vật nhỏ bám vào, do đó gây nên hiện tượng lỗ mây. Các nhà khoa học tin rằng khi máy bay bay xuyên qua những đám mây này, quá trình hình thành băng được bắt đầu. Không khí xung quanh cánh máy bay lạnh nhanh hơn khiến băng lạnh hình thành dưới đám mây và rơi xuống gây hiện tượng lỗ mây như chúng ta thấy.

Lốc lửa
Lốc lửa hay còn gọi là quỷ lửa là hiện tượng hiếm gặp xảy ra khi lửa tạo thành lốc xoáy.


Ảnh hưởng khủng khiếp nhất là cơn lốc lửa xuất hiện ở Nhật Bản năm 1923 sau trận động đất 7.9 độ Rich-te. Những người sống sốt sau vụ động đất tụ tập lại trong một không gian mở nhưng cơn lốc lửa lớn đã quét sạch và giết chết hàng ngàn người.

Sét Cataumbo
Sét Catatumbo xảy ra ở đúng một nơi trên trái đất đó là miệng Sông Catatumbo. Hiện tượng này kéo dài 140-160 đêm mỗi năm nhưng năm 2010, nó kéo dài đến vài tháng và khiến nhiều người dân lo lắng.

Cầu vồng lửa


Cầu vồng lửa là hiện tượng đẹp và hiếm gặp thường xảy ra vào mùa hè khi mặt trời chiếu góc 58 độ hoặc khi các đám mây và ánh sáng mặt trời chiếu đúng góc vào băng dưới mây.

Xoáy nước Brinicle


Xoáy nước gây ra do nước biển lạnh và lắng xuống (nước bão hòa với muối). Hơi nóng từ vùng biển ấm chảy qua không khí lạnh hình thành băng mới dưới đáy. Băng này bị đẩy tới biển và do nước mặn lạnh hơn. Băng sẽ lắng lại và đông lạnh vùng biển ấm mà nó tiếp xúc tạo thành mảng băng và đông cứng bất cứ sinh vật biển nào chạm vào nó.

Ánh đèn xanh
Ánh đèn xanh xuất hiện lúc mặt trời mọc và lặn khi ánh sáng không bị phân tán. Khi mặt trời mọc, nhiều màu sắc khác nhau của quang phổ sẽ bao trùm khiến mắt trần cũng thấy được. Tuy nhiên, hiện tượng này chỉ xuất hiện trong vài giây thôi nhé!

Sấm bụi
Sấm bụi xuất hiện khi tia sét phát ra trong núi lửa và khiến không khí xung quanh không chống lại được dòng điện. Núi lửa phun còn thải ra một lượng nước lớn khi sấm bụi kéo dài.

Bắc cực quang
Hiện tượng cực quang xuất hiện ở cực Bắc địa cầu được biết đến là Bắc cực quang, xảy ra khi các hạt phân tử thuộc thể khí va chạm với phân tử mang điện tích từ mặt trời xâm nhập và không khí trên trái đất.

Mây cuộn


Mây cuộn xảy ra khi có độ ẩm thích hợp. Các cơn gió lớn sẽ đẩy và xoắn mây theo dạng vòng liên tục tạo thành một ống trượt mây khổng lồ trên bầu trời.

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014

Nhìn lại việc thi tú tài ở Việt Nam trước 1975

Nguyễn Văn Lục.

Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy.Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ.
Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.

Cái truyền thống ấy được Nguyễn Hiến Lê viết lại như sau:

“Ở nước ta hiện nay, số hậu duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa.”

(Trích Mười câu chuyện văn chương, Nguyễn Hiến Lê, trang 82).

Quảng trường thi Nam Ðịnh (năm 1897),
thí sinh phải tự làm lều và đặt chõng để viết bài
Nguồn: nguyentl.free.fr

Phải chăng truyền thống đó sản sinh ra những người thầy như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm hay như thi sĩ Đông Hồ mà lúc chết học trò khắc trên bia hai câu thơ như sau:

Ân sâu nghĩa nặng tình dài Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?

Cũng Nguyễn Hiến Lê viết về thầy Dương Quảng Hàm trong cuốn Hồi ký của ông:

“Tất cả học sinh trường Bưởi không ai không trọng thầy vì vậy. Mà các bạn đồng sự Pháp, Việt cũng quỳ thầy nữa. Thật đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Hà Nội.”

(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 65).

Giáo dục miền Nam đã tiếp nối cái truyền thống kính trọng ông thầy ấy. Ở miền Bắc thì họ mang thầy ra tố khổ như trong bài viết của Trần Huy Liệu: “Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim” (Tập san sử địa, số 6, 1955).

May là cụ Dương Quảng Hàm đã chết sớm.

Và họ bắt học trò phải “Quyết tâm thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng” (Tập san sử địa, số 4, tháng 11, 12-1955, Hà Nội).

Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh, Lê về trước chưa có thi cử. Việc tuyển chọn người chỉ là tùy tiện, không câu nệ, nhưng lại cũng không có phép tắc gì.

Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi chọn người tài ra giúp nước.

“Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử”

(Trích Lịch Triều Hiến Chương loại chí (LTHCLT) của Phan Huy Chú, phần mở đầu chương Khoa Mục Chí).

Cái mục đích mở khoa thi đã rõ ràng: Chọn người có tài. Nhưng chọn bao nhiêu? Chọn thế nào?

Đó là cả một vấn đề. Việc thi cử thời xưa còn nhiều điều bât cập như: Cái học từ chương quá, tỉ lệ thi đỗ quá thấp. 1000 người lấy một. Có sĩ tử đã để cả đời đi thi mới đỗ. Ông Đoàn Tử Quang tham dự cả thảy 21 khóa thi từ năm 20 tuổi. Cứ ba năm thi một lần, mãi đến năm 83 tuổi mới thi đỗ. Ông nội Ngô Tất Tố 7 lần đi thi, bố Ngô Tất Tố sáu lần, phần ông Tố hai lần đi thi.

Mặc dầu thi cử khó khăn, nhưng tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt. Luật lệ nghiêm minh như ông Đỗ Nhuận (không phải nhạc sĩ Đỗ Nhuận) viết vào năm 1484:

“Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài… Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp.”

(LTHCLC, phần Khoa Mục Chí).

Chỉ cần giữ lại mấy chữ: Lấy rộng rãi, cách chọn người công bằng. Đời sau không sánh kịp.

Nếu nhìn lại việc thi cử ở miền Nam, tôi chỉ thấy việc thứ nhất còn chưa ổn, việc thứ hai có lẽ cũng không thua gi việc thi cử đời Hồng Đức cả. Trừ giai đoạn chót của VNCH, việc thi cử xem ra có một số trường hợp bê bối. Đã có dư luận đồn thổi về tình trạng con ông cháu cha, kẻ có tiền của.

Sau này đến đời vua chúa triều Nguyễn, phép tắc thi cử cũng vẫn nghiêm ngặt như vậy. Nhà vua xem xét từng li từng tí việc học của các sinh viên trong trường Quốc Tử Giám.Ta hãy nghe lời phê phán vừa nặng nề vừa cho thấy mối quan tâm của vua Minh Mạng đối với tương lai giáo dục ra sao. Năm 1837, vua ra chỉ dụ:

“Thế mà nhìn lại các học quan chỉ biết chiếu lệ thường khảo hạch cho có, gọi là đã làm xong chức vụ, còn quy trình giảng dạy thi lên lớp, tiến bộ ra sao, trình độ học sinh như thế nào, không lưu ý tới, thì bảo sĩ tử gắng sức ở chỗ nào.”

(Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ - Bộ Lễ - Q.192: Học Hiệu).

Thât ra miền Nam có khá nhiều kỳ thi: Thi tiểu học, thi nhập học lớp đệ thất các trường công lập, thi Trung Học Phổ thông dành cho các lớp đệ tứ và thi tú tài 1 và 2. Ở đây chưa kể việc thi trên Đại Học, thi tuyển vào trương chuyên nghiệp như Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học sư phạm, các trường Kỹ sư (Phú Thọ) Điện, Công chánh, v.v...

Việc thi cử phần đông tiến hành tốt đẹp.

Chứng chỉ Tú tài
Nguồn: DCVOnline
Tôi chỉ đưa ra một tỉ dụ. Việc thi vào đệ thất các trường công lập khó mà tránh khỏi một số trường hợp quen biết gửi gắm. Nhất là tại các tỉnh. Cho dù có gửi gắm cũng không phải là ăn tiền hay hối lộ. Có thể chỉ vài trường hợp cá biệt, đơn lẻ. Vì thế vẫn bảo đảm được chất lượng thi cử. Bằng chứng rõ ràng tỉ lệ các học sinh trường công thi đỗ thường cao hơn trường tư nhiều vì có sàng lọc rồi. Nếu trường tư thi đỗ đạt tỉ Lệ 20% thì trường công, tỉ lệ thí sinh thi đậu tú tài là 75% đến 85% hoặc hơn thế nữa.
Nếu tuyển sinh đệ thất không minh bạch thì kết quả thi đỗ tú tài ở trường công tỉ lệ thi đỗ đã khác.

Có nhiều lớp, toàn thể học sinh đều thi đỗ. Đặc biệt một lớp ban B, trường Petrus Trương Vĩnh Ký, vào năm 1970, toàn thể học sinh đều thi đỗ hạng Bình trở lên. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp nhà trường dồn học sinh giỏi vào cùng một lớp. Sau này, lớp học này có nhiều học sinh xuất sắc được học bổng, đi du học và thành tài. Và một trong những học sinh ưu tú ấy, hai lần đỗ tú tài 1 và 2 hạng ưu, điểm trung bình toàn bộ các môn phải từ 16 trở lên và hiện nay ngoài công việc chỉ huy ở sở, anh đang giữ trọng trách với một tổ chức phi lợi nhuận.

Việc học còn từ chương

Việc này, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ngay từ năm 1867 đã phê phán thẳng thừng và dứt khoát, ông viết:

“Nhìn lại sử học của ta ngày nay, 1867, những điều thầy dạy, những điều trò học, toàn là những chuyện xa xưa. Lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên ra làm việc thì lại thấy luật-lịch-binh-hình… Xưa nay, trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy... Nếu đem cái công phu cả đời đem tâm trí ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì có thể chống được giăc...”

(Trích Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Thảo, Trương Bá Cần, trang 76, NXB Tp. HCM, 1988).

Rất tiếc những lời cảnh báo về cái học từ chương, “toàn những chuyện xa xưa” không được vua quan để ý tới và kéo dài cho mãi đến bây giờ.

Mặc dầu việc phê phán của Nguyễn Trường Tộ nhằm vào thời kỳ còn nặng nho học, nhưng cái tinh thần ấy vẫn còn rơi rớt lại sau này. Chẳng hạn trong chương trình tiểu học của miền Nam sau này. Học trò tiểu học phải học thuộc lòng các bài địa lý, lịch sử, cách trí. Học thuộc lòng ra rả như cuốc kêu. Kể thật cùng tội. Các lớp trung học, nhất là ban Vạn vật thì Vạn vật cũng là môn học thuộc lòng, môn học đào luyện trí nhớ tốn bao thì giờ công sức mà xét ra ít hữu dụng. Các môn sử ký, địa lý trong cách giảng dạy, trong cách chấm điểm còn nặng tính từ chương, thiếu óc phê bình, thiếu nghị luận. Ngay các bài giảng văn cũng được diễn giải một chiều, ước lệ, có bài bản sẵn, ít đi ra ngoài thông lệ, ít sáng tạo, thiếu cách đặt lại vấn đề, thiếu phản biện.

Nói chung là còn vướng mắc nhiều tinh thần lệ thuộc. Lệ thuộc người xưa, lệ thuộc sách vở và ngay cả lệ thuộc vào ông thầy.

Các lớp dạy luyện thi cho thấy học trò lệ thuộc vào ông thầy như thế nào.

Và đây là một lời dạy khuôn vàng thước ngọc:

“Các người lại không bắt chước người đời xưa sao, hay là chỉ lấy tiếng ư? Học trò tranh nhau mài gọt, gây dựng nhân tài, để làm việc nước, có vậy mới không phụ ý trong việc học, hậu đãi người hiền, mọi người đều phải kính cẩn tuân theo.”

(Trích Đại Nam Thực Lục chánh biên).

Đại NamThực Lục chánh biên là sách ghi chép sử triều Nguyễn từ Gia Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỳ, mỗi kỳ là một đời vua. Có tất cả 6 kỳ.

Cái học lệ thuộc thầy, lệ thuộc “cours” còn tồn tại ngay ở các đại học. Sinh viên thi đỗ chỉ cần thuộc cours của giáo sư giảng trong lớp.

Thi cử lấy đỗ khá khắt khe.

Tiêu biểu cho sự khắt khe này là hình ảnh Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố, một sĩ phu tài tuấn, có lương tri, có tài học mà lận đận với thi cử. Nó là bản cáo trạng đối với tổ chức lề lối học hành và thi cử thời xưa, lãng phí nhân tài và chất xám của đất nước.

Người viết đã truy tìm một số kết quả các kỳ thi Trung Học Phổ Thông và tú tài sau 1954 để cho thấy việc thi cử là khắt khe quá. Nhưng kết quả tìm tòi còn chưa được như ý muốn.

Năm 1950, đại học văn khoa Sài Gòn, ở đường Garcerie nay là Phạm Ngọc Thạch mới có 50 sinh viên theo học và 50 dự thính viên. Trường Khoa Học mới có 14 sinh viên đậu chứng chỉ P.C.B, 2 sinh viên đậu S.P.C.N, 3 sinh viên đậu toán đại cương, 2 sinh viên đậu vật lý đại cương. Năm 1954-1955 có 13 bác sĩ, 11 dược sĩ, cử nhân luật 159 và rất tiến bộ đã có 135 người đậu chứng chỉ khoa học.

(Trích Địa chí Văn hóa TPHCM, trang 743-745)

Một học sinh giỏi nhất lớp ở ngoài Bắc vào năm 1948, vậy mà trong học bạ của anh, không phải điểm số nào anh cũng đạt trung bình (tác giả viết nhầm, không có điểm số nào anh đạt trung bình). Xem và đọc để thấy nó vô lý như thế nào!!!

Học bạ 1950
Nguồn: NVL

Giỏi nhất lớp, thông minh mà điểm chưa đạt trung bình? Và đây là nhận xét của giáo sư Dương Thiệu Tống, người đã còn giữ học bạ này của học trò gửi cho làm kỷ niệm. (gs Dương Thiệu Tống, trường Trung Học kiểu Mẫu, Thủ Đức)

Ông nhận xét như sau:

“Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.

(Trích “Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại”, Dương Thiệu Tống, nxb Trẻ, trang 279-281)

Nhưng câu nhận xét sau đây của giáo sư Dương Thiệu Tống thật hơi lạ.

“Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.”

(Trích như trên)

Giáo sư đã cho phép dành cho đồng nghiệp tìm ra giải đáp thì tôi xin được thưa với giáo sư như thế này. Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ mà bản thân người viết bài này có thể chỉ là hàng con cháu. Giáo sư đã đi du học Hoa Kỳ mang về cái bằng Tiến sĩ giáo dục mà vấn đề cho điểm như trên, giáo sư lại thối thác không cho một giải đáp.

Thưa giáo sư, trồng cây thì phải có quả. Trồng tốt sẽ cho quả tốt. Trồng người cũng gần như vậy. Dạy học thì trò đi thi phải đỗ. Không đỗ thì phần trách nhiệm không nhỏ là do thầy, do chương trình, do xã hội. Điểm phi lý đến nực cười là cho điểm thì đều dưới trung bình mà lại đứng đầu lớp. Không lẽ học trò đều dốt cả? Cho dù thế nào đi nữa thì không có lý nào điểm thì kém, dưới trung bình trong khi lời phê của giáo sư thì nào là giỏi, thông minh, đáng khen. Như vậy thì nên căn cứ vào điểm hay vào lời phê? Lời phê như thế có phản ảnh đúng trình độ học sinh hay không? Giải pháp là xét lại thang điểm và thay đổi thái độ chấm bài, nhất là bài văn, cần kèm thêm các câu hỏi giáo khoa hay trắc nghiệm như sau này Bộ (Quốc gia) Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đem ra áp dụng.

Thực ra khó khăn do thi cử và giáo dục thì ở đâu cũng có. Mỗi thời mỗi khó khăn khác. Như tỉnh Québec mà tôi đang ở. Mỗi năm dành 13 tỉ đô la dành cho giáo dục, vậy mà nhiều học trò trung học, ngay cả đại học còn viết đầy lỗi chính tả. Ngay ông Thủ tướng trong bài diễn văn đọc về cải cách giáo dục, người ta tìm ra được 13 lỗi phạm lớn:

“N’est–ce pas le premier ministre Jean Charest, qui dans un discours à l’Assemblée nationale, affirmait vouloir poursuivre ses efforts” pour améliorer la qualité de notre langue commune, le francais” alors qu’il remettait aux journalistes un texte comptant une douzaien de fautes majeures...” (Trích “Le grand mensonge de l’éducation”, Luc Germain, Luc Papineau, Benoit Séguin, trang12).

Phải chăng ngay cả ông Thủ tướng Charest trong một bài diễn văn đọc trước Quốc Hội khẳng định trong nỗ lực tiếp tục “Cải tiến phẩm chất tiếng nói chung của chúng ta là tiếng Pháp,” vậy mà, chính ông Thủ tướng đã phát cho các nhà báo một bản diễn văn trong đó tính ra có đến 13 lỗi phạm lớn.


Kinh nghiệm đi chấm thi tú tài 2 các bài Triết hay luận Pháp Văn, Anh Văn cho thấy hệ số bản thân người chấm, hệ số tin cậy và sai số do hai giám khảo chấm, cách nhau trung bình hai điểm, có khi là 4 điểm. Thường trước khi bắt đầu chấm, giám khảo ngồi thảo luận “thang điểm”. Phần này thì cho bao nhiêu điểm, phần kia bao nhiêu điểm. Sau đó cộng lại các điểm đã cho. Sự sai biệt giữa hai giám khảo chấm cũng một bài là từ hai đến ba điểm, có khi 5 điểm cho thấy việc chấm thi thiếu công bằng, thiếu khách quan. Giả dụ bài Triết ban C, hệ số 4. Cách nhau 3 điểm, nhân 4 trở thành cách nhau 12 điểm. Quá bất công cho học trò, vì nhiều khi chỉ cần một điểm là đủ đỗ?

Kinh nghiệm bản thân khi tôi thi tú tài 2 ban C, chọn Pháp Văn làm sinh ngữ một. Bài thi bắt buộc là một bài luận văn chương Pháp chọn trong các tác giả thế kỷ 19 như Victor Hugo, Alfred de Vigny, Lamartine, Chateaubriand, v.v... Sinh ngữ 2 là anh văn thì gồm có một bài luận luân lý. Cả năm đã học theo chương trình như thế. Nhưng nghe tin đồn là năm nay, giáo sư Nguyễn Văn Lúa, giáo sư Pháp Văn đại học Văn Khoa xuống chấm thi. Không ai bảo ai, một số học sinh sợ ăn điểm một hai gậy của giáo sư Lúa bèn trốn ông, chọn Anh Văn làm sinh ngữ một.

Tên sao trùng với người thế. Gặp ông là lúa đời rồi. Ông nổi tiếng hung thần đánh rớt học trò. Vậy mà được đồng nghiệp kính nể. Anh Văn vốn tôi đã chẳng giỏi gì, phần lớn thời gian tự học lấy trong “Butterfly”. Giọng đọc anh văn thì thầy còn đọc trật huống chi trò. Sang Mỹ này vừa chẵn 30 năm mà nói Mỹ vẫn chưa hiểu!!! Sau bài luận văn chương ép uổng đó, từ đó đến nay, tôi không hề dám viết một câu tiếng Anh nào nữa, mặc dầu việc biên khảo hiện nay, phần lớn, tôi đều dựa trên sách viết bằng tiếng Anh.
Nói theo kiểu giáo sư Dương Thiệu Tống, nói Mỹ nó không hiểu thì nó dốt hay mình dốt? Giáo sư Dương Thiệu Tống còn viết bài: Trẻ Chưa Ngoan, Nguyên nhân? Tôi thấy ông thật thà quá. Nguyên nhân chính là cộng sản mà ông cứ nói đâu đâu?

Ông Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Hơn nửa đời hư có kể đi dự thi concours để làm việc cho Pháp, thi mãi không đậu. Ông viết:

“Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua. Nhưng mình vẫn nhất quyết “Không liều như đánh bài,” chỉ còn tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói.” Cuối cùng ông kết luận: “Cám ơn đã được thi rớt.”

(Trích Hơn Nửa Đời Hư, Vương Hồng Sển, trang 226-228).

Nói chuyện với mấy vị giáo chức lớn tuổi, họ thường ân hận là trong đời đi dạy, họ đã chấm điểm ngặt nghèo qua. Vì mình mà có đứa phải đi lính, có đứa biết đâu vì thế chết ngoài mặt trận.

Sau đây là kết quả các kỳ thi tú tài 1 và tú tài 2 vào niên khóa 1954-1955 cho thấy kết quả thí sinh thi đỗ là bao nhiêu của hai chương trình Việt và Pháp lúc bấy giờ.


Bảng 1: Kết quả kỳ thi tú tài I và 2,
chương trình giáo dục Việt Nam 1953-1954, Sài Gòn-Nam Bộ
Nguồn: Việt Nam niên giám thống kê, trang 126-130

Bảng 2: Kết quả kỳ thi tú tài 1 và 2 chương trình Pháp 1954-1955
Nguồn: Việt Nam niên giám thống kê, trang 126-130


Một vài nhận xét

Tú tài Việt

Đây là năm cuối cùng của việc thi cử trong hệ thống giáo dục của Pháp.

■ Nên nhớ rằng, chính phủ quốc gia chỉ mới công bố chương trình thi lấy bằng Trung Học Phổ thông đệ nhất cấp kể từ 1950. Khóa 1, tháng sáu/1950, khóa 2 vào tháng 9/1950.

■ Vì thế không lạ gì số học sinh trường Việt dự thi ít hơn trường Pháp đến gần một nửa. Điều đó cho thấy việc học chỉ dành cho những người có tiền của, loại con ông cháu cha khác hẳn kỳ thi năm 1955-1956. Trường Petrus Ký, Gia Long mới chỉ bắt đầu mở các lớp đệ thất dạy chương trình Việt, nhưng vẫn duy trì một số lớp chương trình Pháp.

■ Tỉ lệ tú tài 1: thí sinh thi đỗ tú tài 1, Việt Nam, kỳ 1 là 25% cộng cả hai kỳ là 35%. Thấp.

■ Tỉ lệ thí sinh bỏ dự thi tú tài 1, kỳ 2, rất cao. Điều đó cho thấy, người giỏi thì đỗ ngay kỳ đầu, người không học, sau khi thi thử kỳ đầu, không đậu đã bỏ luôn, không dự kỳ khóa hai. Đáng nhẽ phải có hơn 800 dự thi khóa hai, chỉ còn hơn 500 dự thi khóa hai. Đã có khoảng 300 người bỏ cuộc. Cho dù thi lại, tỉ lệ thi đậu chỉ hơn 10% so với kỳ đầu là 25%.

■ Tỉ lệ tú tài 2: Những người thi tú tài 2 đều giỏi vì đã được sàng lọc trong kỳ thi tú tài 1. Vì thế tỉ lệ thi đỗ rất cao so với tú tài 1. 70%. Số lượng những người tham dự kỳ thi tú tài 2, khóa hai cũng rất cao, chỉ vắng mặt vài chục người, vì họ tin rằng họ có thể thi đậu nên không bỏ cuộc.

■ Tỉ lệ thi Trung học đệ nhất cấp đậu cao, đến hơn 50%.

■ Những con số thi cử này sẽ thay đổi nhiều trong các năm tới khi có số đông học sinh di cư vào Nam cũng như các trường trung học mở ra khắp nơi.

Tú tài Pháp

■ Nhận xét thứ nhất là thi tú tài Pháp gay go và khó đỗ hơn tú tài Việt. Vì họ chỉ thi có một kỳ, không có kỳ 2. Tỉ lệ thí sinh thi đậu chỉ đạt 20- 25%. Vì thế sau này không lạ gì, nhiều học sinh đổi sang trường Việt học thi cả hai kỳ thi Việt Pháp. Tại trường Cao Bá Nhạ, gần đường Cống Quỳnh, Trần Hưng Đạo, có một trung tâm luyện thi dành cho học sinh chương trình Pháp thi tú tài Việt. Ai là người đã học trong hai lớp này?

■ So sánh hai bảng thì kết quả thi cử Việt Nam cho đỗ nhiều hơn thí sinh người Pháp. Phải chăng học sinh Việt Nam học giỏi hơn người Phảp, chăm hơn người Pháp? Tôi nghiêng về lý do giám khảo Việt Nam chấm rộng hơn giám khảo Pháp.

Và đó phải coi là một ưu điểm, tiến bộ về phía giám khảo Việt Nam.

Thi cử qua các kỳ thi tú tài 1 và 2 ở miền Nam là công bằng vì tổ chức chặt chẽ và vì lương tâm nhà giáo.
Tổ chức chặt chẽ, có phương pháp, có lề nếp là yếu tố quyết định trong thi cử. Cá nhân muốn gian lận cũng khó mà gian được. Chẳng hạn chuyển đổi người địa phương đi nơi khác là yếu tố quan trọng hàng đầu. Phân biệt tổ chức Hội đồng giám thị và Hội đồng giám khảo. Không cho phép bất cứ quan chức địa phương nào, từ Tỉnh trưởng đến người quân cảnh dính dáng xa gần tới Hội đồng giám thị, Hội đồng giám khảo. Hai hội đồng ấy từ trung ương gửi xuống biệt lập với quan chức địa phương. Địa phương chỉ có bổn phận bắt buộc cung cấp phương tiện. Chánh chủ khảo đến làm việc là mọi chuyện phải được sắp xếp sẵn sàng cho họ phương tiện di chuyển như máy bay quân sự, xe cộ; lính canh gác thùng đề thi, an ninh tại các trường thi.

Chẳng hạn để tiết lộ thùng đề thi do trách nhiệm ông Tỉnh trưởng thì việc trước tiên là ông tỉnh trưởng phải đổi đi chỗ khác.

Tổ chức ấy được tiến hành như sau:

Nha Khảo Thí

Nha khảo thí là nơi đầu não làm việc suốt quanh năm nhằm mục đích tổ chức hai kỳ thi Trung học Phổ thông và 4 lần thi Tú tài 1 và Tú tài 2. Cơ quan này chia ra nhiều bộ phận riêng rẽ, biệt lập như tổ chức các Hội đồng Giám thị và Giám khảo, phân phối điều động các giám khảo, giám thị. Vì Sài Gòn là trung tâm nên nơi đây còn chia ra nhiều Hội Đồng như Hội Đồng ban B, ban C và D, Hội Đồng ban A. Các tỉnh thì có các Hội Đồng Giám khảo như Huế, NhaTrang, Cần Thơ, v.v… Hội Đồng Giám Thị thì tổ chức tại các địa phương như các tỉnh Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Hội An, Quảng Trị, v.v... Khi các thí sinh thi xong thì bài thi và hồ sơ của Hội Đồng Giám Thị được chuyển tất cả về Huế.

Bộ phận quan trọng của Nha Khảo Thí là hội đồng ra đề thi. Bộ phận này nằm chót lót trên lầu 3 của Nha Khảo Thí. Người ta gọi đùa là một vương quốc thi cử. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.


Nữ sinh ngày xưa
Nguồn: vietchange.com

Trung bình mỗi môn có hai giáo sư trung học có kinh nghiệm phụ trách. Họ có bổn phận cân nhắc kỹ lưỡng từng câu hỏi giáo khoa, từng bài thi sao cho đúng. Không có kẽ hở có thể để học trò hiểu lầm câu hỏi hay có thể có hai cách trả lời, v.v... Hoặc đề tài cần vừa trình độ học trò, không quá khó. Có nhiều năm, bài toán ra quá khó, nhiều học trò giỏi cũng ngắc ngư. Báo chí phản ứng dư luận rùm beng. Riêng đề thi ban Triết, nhiều vị không dám tự mình đề xướng ra một đề thi mới và thường chọn các đề thi có bài luận giải đáp trong sách Foulquié cho chắc ăn. Vì thế, các giáo sư cũng lấy các đề thi và bài luận trong sách này dạy cho học trò. Không có “học tủ” đâu, vì có đến 4, 5 cuốn Foulquie với hàng trăm bài mẫu.

Sau khi đã quyết định chọn được đề thi rồi, các vị ấy phải tự mình đánh máy, tự mình quay ronéo, tự mình để vào các phong bì rồi niêm phong lại. Phong bì đóng khằn bằng xi. Phòng đề thi được bảo mật, có người canh gác, có hệ thống an toàn riêng để tránh sự đột nhập của người lạ. Tất cả tổ chức khắt khe như vậy chỉ nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho việc thi cử được bảo mật tối đa, giữ được công bằng.Tuy nhiên tổ chức bảo mật khắt khe đến đâu đi nữa vẫn có yếu tố con người. Vì thế, vấn đề còn lại vẫn là cá nhân, tư cách người thầy. Điều đó chính là rường cột của một nền giáo dục chân chính.

Các Hội Đồng Thi

Phần này viêt theo trí nhớ, có thể có một hai tiểu tiết thiếu sót, xin được thông cảm.

Để bảo đảm cho các kỳ thi đạt được kết quả mong muốn. Nguyên tắc của bộ (Quốc gia) giáo dục miền Nam là điều động các giám khảo từ địa phương này sang địa phương khác. Giám khảo ở Huế thì vào Nha Trang và ngược lại. Các giám khảo các tỉnh lẻ cũng bị điều động đi nơi khác. Mặc dầu tốn kém và khó khăn di chuyển. Nhiều địa phương mất an ninh, bắt buộc phải dùng phương tiện máy bay và lúc đó phải nhờ bên quân đội đảm trách việc di chuyển các giám khảo. Nguyên tắc di chuyển giám khảo ra khỏi địa phương của họ đã được duy trì từ năm 1955 đến 1975 và đem lại kết quả khá mỹ mãn.

Có các vị giáo sư lão thành cho hay hồi 1955-1956, số thí sinh còn ít, bài thi rọc phách rồi giám khảo được phép mang về nhà chấm. Vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra?

Việc coi thi và chấm thi là hai bộ phận riêng biệt.

Các giáo sư trung học phải đảm trách hai nhiệm vụ một lúc: Vừa là giám thị vừa là giám khảo. Từ đó phân chia ra hai hội đồng: Hội đồng giám thị để coi thi, hội đồng giám khảo để chấm thi.

1. Hội Đồng Giám Thị

Công việc của Hội Đồng Giám Thị là tổ chức các kỳ thi viết tại các tỉnh nhỏ như Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Di Linh, Quảng Ngãi, Long Xuyên, Rạch Giá, v.v... Nghĩa là học sinh ở đâu thi tại đó. Báo chí trong nước hiện nay cho tin, các học sinh phải thuê nhà trọ để ứng thi chẳng khác gì các sĩ tử thời Nho Học là bao nhiêu. Trên thế giới chắc chỉ có Việt Nam hiện nay làm như vậy.

Ban Chủ tịch Hội Đồng thường có ba người: Một chủ tịch hội đồng, một phó chủ tịch và một thư ký. Các chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch thường do các hiệu trưởng hay các giáo sư có thâm niên trong nghề đảm trách. Tại địa phương, các ông phó tỉnh Trưởng, trưởng ty tiểu học ‒ Không có Hiệu Trưởng, vì hiệu trưởng, cũng được điều động đi nơi khác ‒ giúp sắp xếp lo liệu về hành chánh, điều động an ninh quân đội hay cảnh sát nếu có canh gác thì phải ở ngoài khuôn viên nhà trường. Các ông giám thị, tổng giám thị lo liệu sắp xếp chỗ ngồi theo số báo danh.

Đề thi đã được gửi tới tòa Tỉnh trưởng và Tòa tỉnh trách nhiệm cho người canh gác hòm bài thi, nếu cần. Cho dù có gan trời, các ông ấy cũng không dám đụng đậy vào các bao bì đề bài thi này.

Đến ngày thi, ông chủ tịch hoặc ông phó chủ tịch Hội đồng thi đến tòa tỉnh làm biên bản nhận bao bì bài thi. Tòa tỉnh cho xe quân cảnh hộ tống xe của Hội Đồng thi đến các hội đồng thi giao bài.

Phần thư ký hội đồng có bổn phận sắp xếp các giám thị địa phương là các giáo viên tiểu học kèm theo một giáo sư từ chỗ khác đến. Nghĩa là mỗi phòng thi gồm hai giám thị. Giám thị 1 là giáo sư trung học, giám thị 2 là giáo viên tiểu học. Bên ngoài, mỗi hành lang có thêm một giám thị hành lang là một giáo sư để kiểm soát chung cả hành lang.

Trước giờ thi các giám thị xem bảng sắp xếp đi về phòng thi đã được chỉ định kèm theo một hồ sơ các giấy tờ cần thiết cho mỗi phòng như biên bản. Đúng giờ thi, các giám thị hành lang sẽ mang phong bì đề thi được gián kín giao cho các giám thị mỗi phòng.

Tổ chức rất chặt chẽ, nhiệm vụ được phân chia rõ ràng. Bao nhiêu năm vẫn thế, ít có sự thay đổi. Vai trò các giám thị là giáo viên địa phương có hơi tế nhị như gặp thí sinh quen biết hoăc họ hàng. Nhưng thật sự không có vấn đề, vì còn có giám thị 1 có nhiệm vụ kiểm soát tất cả. Chưa kể còn giám thị hành lang.

Tờ giấy thi phát cho thí sinh làm có chữ ký của hai giám thị. Không có chữ ký của họ là bất hợp lệ. Cho nên tráo bài thi là truyện khó có thể xảy ra.

Hết giờ thi, nhiệm vụ của giám thị là thu bài xếp theo thứ tự vần, đánh số mật mã ở ô vuông trên mỗi bài thi. Phía ngoài ghi số thí sinh có mặt. Số đó là mật mã của sấp bài. Bài sau đó, được buộc chặt đóng thùng, gửi máy bay về Hội Đồng Giám Khảo.

Công việc của Hội Đồng Giám Thị kể là xong. Số phận học sinh nay nằm trong chính những xâp bài mà họ đã làm và nhất là trong tay các vị giám khảo.

2. Hội đồng giám khảo

Đây là công việc quan trọng nhất, quyết định số phận học trò. Công việc chấm thi, cộng điểm, lên danh sách kéo dài cả tháng trời. Rất thận trọng, rà soát lại từng thí sinh một.

Bài thi được rọc phách. Thường ông Phó chủ khảo đánh số mật mã. Mật mã trên phần phách phía trên và mật mã trên phần bài thi. Sau này chấm xong, ráp hai phần đó có số mật mã giống nhau là được.

Trường Trung Học Châu Văn Tiếp - Phước Tuy
Nguồn: chauvantiep.com

Mỗi bộ môn có chừng độ 7, 8 giám khảo. Chấm lâu và mất nhiều thì giờ nhất là môn Triết. Có một trưởng ban cho mỗi môn. Mỗi giám khảo chấm bài nhận xấp bài đã ghi mã số bên ngoài bìa như xấp 25 bài, sẽ ghi xấp 25. Trước khi chấm phải họp lập thang điểm để thống nhất việc cho điểm. Bài cho điểm cao, bắt buộc phải đưa cho một giám khảo khác chấm lần thứ hai, sau đó cộng lại cho trung bình. Rất tiếc, đáng nhẽ bài cho điểm thấp quá cũng cần có chấm lại lần thứ hai cho công bằng.

Sau khi các giám khảo chấm xong. Vấn đề còn lại có tính cách hành chánh như là ráp phách, cộng điểm. Ngay việc cộng điểm cũng cần hai người, đọc điểm lên, rồi cộng, rồi so sánh, rà soát lại để tránh cộng sai. Công việc tổ chức khá là chặt chẽ.

Công lao khó nhọc cả năm trời quyết đinh trong mấy tiếng đồng hồ, kéo dài trong mấy ngày. Phù du như ảo ảnh. Đôi mắt tuổi trẻ nay ánh lên nỗi niềm lo âu và tin tưởng. Sự mong đợi và sự hy sinh vô bờ bến của bậc làm cha mẹ. Làm sao nói hết cho ra lời. Họ chỉ mong con cái thi đậu.

Nỗi niềm đó kéo theo tâm sự của cả miền Nam mỗi khi đến mùa thi.

Bầu khí đó nói lên tầm quan trọng của mùa thi. Nhất là cuối thập niên 1960, sau tết Mậu Thân. Tương lai tuổi trẻ như thế nào có thể đổi khác khi những mảnh giấy in ronéo được dán lên. Thi cử và tương lai tuổi trẻ gắn liền vào một. Đó là cái ý nghĩa nhất trong mùa thi cử.

Nhưng cho dù tổ chức thi cử có chặt chẽ thế nào đi nữa, người ta vẫn có thể gian lận. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng điều mà tôi nghĩ rằng, tổ chức thi cử ở miền Nam được tốt đẹp không hẳn ở tổ chức chặt chẽ.

Thi cử chặt chẽ, tốt đẹp và đàng hoàng là do con người của nhà giáo.

Tôi đã nhìn lại một số bậc đàn anh để thấy rằng nơi những người thầy ấy không có chỗ cho điều xấu có chỗ cư ngụ. Nhân cách họ bày tỏ một sự trong sáng không tì vết. Nhìn họ, nhìn con người họ nhìn phong cách họ, không một ai dám mở lời xin xỏ hay hối lộ.

Xin vinh danh họ. Những người đã đào tạo nên những thế hệ học sinh sau này thành người.

Tổ chức thi cử nghiêm chỉnh và nhân cách người giám khảo là hai yếu tố tạo cho các kỳ thi ở miền Nam trước 1975 đã đạt được sự công bằng cho mọi thí sinh.

Mặc dầu sống thanh bạch, các thầy giáo miền Nam, trung và tiểu học, nhất là tiểu học có quyền ngửng đầu để thấy rằng thi cử cũng như giáo dục là điều còn lại duy nhất giúp cho người miền Nam thấy hơn miền Bắc.

Tất cả những ai đã đỗ đạt ở miền Nam vì thế đều có quyền tự hào là mình đã xứng đáng đỗ như thế. Và chỉ cần nhìn những người Việt Nam ở hải ngoại đã có thể học lại, có thể đỗ đạt ở nước ngoài không thua bất cứ di dân nào. Và tất cả chúng ta đều có quyền hãnh diện với chính mình và hãnh diện vì đã được đào tạo trong một môi trường giáo dục lành mạnh, nhân bản và đạo đức ở miền Nam Việt Nam.

Cụ thể là có khoảng 2800 dược sĩ hiện nay đang hành nghề tại hải ngoại. (Trích Danh sách dược sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, xuất bản năm 1997).

Và có khoảng 2600 bác sĩ đủ loại cũng đang hành nghề khắp nơi trên thế giới. (Trích Danh sách Y sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, 1997).

Còn lại biết bao nhiêu kỹ sư, giáo sư, Quốc Gia Hành Chánh cũng đã tạo được chỗ đứng cho họ ở xứ người.

Từ Hiệp đinh Geneva 1954, người dân miền Nam Việt Nam lo ổn định cuộc sống, trẻ em nô nức đến trường, phụ huynh ước mong con em học hành thành đạt để thoát khỏi cảnh nghèo dốt. Có sự bùng nổ của ngành Quốc gia Giáo dục, với phương tiện eo hẹp, chính quyền VNCH đã cố gắng đáp ứng nhu cầu học tập của giới trẻ. Buổi đầu ưu tiên tiểu học và trung học. Về sau bậc trung học tác động mạnh lên đại học.

Ngoài số thanh niên tốt nghiệp trung học mặc chiến y, một số khác được hoãn dịch vì lý do học vấn tiếp tục học lên đại học.

Một miền đất nước với gần 20 triệu dân trong hoàn cảnh chiến tranh triền miên dữ dội mà xây dựng được một hệ thống giáo dục như thế, đào tạo được một đội ngũ trí thức tài giỏi là một điểm son của chính thể VNCH.

Những vụ bê bối trong thi cử ở miền Nam

Tôi nêu ra đây một vài vụ việc, nêu cả danh tánh, trong đó có những người tôi cũng biết. Nêu ra để chứng tỏ một thứ trong sáng, transparency, cần thiết mà không có một chút ác ý cỏn con nào. Câu chuyện nay đã vào quá khứ, nói ra như một bằng chứng cần phải nói thôi. Và xin lưu ý, cả hai vụ nêu ra đây đều xảy ra thời Đệ Nhị Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam. Lúc đó kỷ cương, kỷ luật học đường ‒ do chiến tranh một phần, nhưng do những người lãnh đạo miền Nam lúc đó phẩm chất đạo đức yếu kém, sự có mặt của người Mỹ tạo ra những xáo trộn xã hội không tránh khỏi, thêm nhiều nhố nhăng chạy theo đồng tiền ‒ Và chuyên gì đã xảy ra thì phải xảy ra thôi. Có nhiều trường hợp chỉ là tin đồn thì chúng tôi không xét đến như có đường giây nọ, giây kia ở tỉnh Biên Hòa.

– Vụ thứ nhất liên quan đến hai giám khảo Nguyễn Hữu Lễ và Phạm Kiều Tùng. Việc này xảy ra ở Vĩnh Long do có lộ đề thi trước và giám thị đã bắt được và truy ra manh mối từ hai vị giám khảo trên. Hồ sơ nội vụ đã được phúc trình về bộ giáo dục dưới thời bác sĩ Nguyễn Lưu Viên và Nguyễn Danh Đàn. Hồ sơ được chuyển cho Thanh tra đặc biệt. Vụ này có liên quan đến một người cháu của ông Trần Văn Văn và vì thế bà Trần Văn Văn có can thiệp, gọi điện thoại cho vị thanh tra, nhưng vị thanh tra cứ thẳng mà làm. Và cho biết rằng không có bổn phận trả lời bà. Kết quả là hai vị giám khảo bị vi phạm kỷ luật trường thi, bị đổi đi nơi khác. Vụ này thật ra chỉ là do tình cảm cá nhân như liên hệ bà con họ hàng chứ không phải là làm tiền hay tham nhũng. Ảnh hưởng xấu có giới hạn rõ ràng và có thể giảm khinh được theo cái lối xử sự của người mình.

– Vụ thứ hai liên quan đến một giáo sư toán dạy Petrus Trương Vĩnh Ký, ông Cam Duy Lễ, sau về làm trong nhóm ra đề thi. Gia đình một phụ huynh học sinh đã bỏ một số tiền ra mua đề thi của ông giáo sư này. Đề thi chắc để bảo mật chỉ giao cho thí sinh này trước vài tiếng. Nhưng thí sinh này tham muốn gỡ lại số tiền đã bỏ ra bèn bán đề thi. Chẳng mấy chốc mà đề thi được tiết lộ cho nhiều người. Ông giáo sư này bị điều tra, bị hoàn trả về sở nhân viên và để làm gương cho những người khác, ông bị đưa ra tòa.
Dù sao, việc này đã gây một tiếng xấu trong ngành giáo dục không ít.

Cá nhân tôi xin thú thật thì tôi cũng đã làm nhiều việc bê bối thời trẻ. “Tôi hư trong bụng tôi biết.” Ôi tuổi trẻ sao mà mệt thế! Chuyện gì cũng dám làm. Vậy mà đụng đến thi cử là bàn tay như rụt lại, không dám xé rào thò tay vào. Điều gì đã làm cho người tuổi trẻ biết tôn trọng, biết giữ gìn “nhân cách” của mình, một cái nhân cách mà so với một Hoàng Cơ Nghị là thua một trời một vực?

Nhưng dù gì thì cũng vẫn là con người. Việc gian lận thi cử cũng vẫn xảy ra ‒ thời nào cũng có- và điều đó không có gì lạ.

Nếu đời hết tham lam thì biết đâu chúng ta đã có cơ hội ngồi chung bàn với Phật? Và có dịp bắt tay ông Thánh Phêrô lừng lững vào Thiên Đàng?

Trong truyện đời xưa, ông Trương Vĩnh Ký kể truyện đút sáp vào đít hối lộ cho cọp ăn cũng kể là thâm thúy.(Ý của Vương Hồng Sển). Trong Hồi ký Nguyễn Hiến Lê viết:

“Năm đó, tôi thi xong môn chính tả buổi sáng tin chắc là rất ít lỗi mà qua được môn đó, tôi sẽ đậu. Buổi chiều, bỗng có tin là đầu bài bị tiết lộ nên bỏ, sáng hôm sau thi lại. Nghe nói kẻ tiết lộ đầu bài là một học sinh ban tú tài bản xứ trường Bưởi được thống xứ Bác Kỳ yêu vì giỏi Pháp Văn.

(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 144)
Việc thi cử như trên dù có sơ xuất cũng chỉ thu gọn vào phạm vi cá nhân mà không có tính cách “đại trà” như hiện nay ở Việt Nam.

(Hết)

Phụ lục: Tú tài I và Tú tài II

Danh từ Tú tài I và Tú tài II lần đầu tiên được dùng ở Việt Nam vào thời Pháp thuộc. Tháng Tám năm 1928 Nha học chính Đông Dương mở kỳ thi Tú tài I đầu tiên. Sang năm sau vào Tháng Chín 1929 thì tổ chức kỳ thi Tú tài II. Lúc bấy giờ bằng Tú tài I và II lấy mẫu từ bằng Baccalauréat Première PartieDeuxième Partie của Pháp, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ trong trường học. Năm 1945 vua Bảo Đại ra đạo dụ dùng chữ Quốc ngữ trong kỳ thi Tú tài nhưng phải đợi đến thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam tiếng Việt mới được đưa vào làm ngôn ngữ chính.

Khi đất nước Việt Nam chia đôi thành Việt Nam Cộng hòa ở phía nam vĩ tuyến 17 và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở phía bắc thì danh từ Tú tài bị bỏ hẳn ở ngoài Bắc, thay vào đó là tên "bằng tốt nghiệp cấp III". Ở Miền Nam thì tiếp tục dùng Tú tài I và II là hai đợt thi tuyển quan trọng ở bậc trung học.

Học sinh sắp xong lớp 11 phải thi Tú tài I (còn gọi là Tú tài bán phần) để lên lớp 12. Kỳ thi Tú tài I có phần viết và phần vấn đáp. Phần vấn đáp bị loại bỏ năm 1968. Văn bằng Tú tài I còn được dùng để tuyển nhân sự cho một số học viện như Học viện Cảnh sát Quốc gia, hoặc trường cao đẳng như Trường Cao đẳng Công chánh. Việc thi cử thường tổ chức thành hai đợt để ai hỏng đợt 1 có thể dự thi đợt 2. Nam giới ai hỏng thi Tú tài I phải trình diện nhập ngũ quân đội đi quân dịch hai năm hoặc vào trường hạ sĩ quan Đồng Đế ở Nha Trang; đậu thì vào Trường Bộ binh Thủ Đức.

Tú tài II thi vào cuối năm lớp 12. Tú tài II, tức Tú tài toàn phần cũng có hai phần: phần viết và phần vấn đáp như Tú tài I. Sinh viên tuyển vào bậc đại học phải hội đủ điều kiện là đậu được bằng Tú tài II.

Tú Tài I.B.M.

Cho đến lúc này, người viết không nắm chắc được việc thí nghiệm thi trắc nghiệm, còn gọi là tú tài IBM là do khuyến cáo của Mỹ hay do các vị đi du học ở Mỹ về đề nghị. Điều chắc chắn là thử nghiệm tú tài IBM đã bị một số viên chức và báo chí lên tiếng phản đối. Sự phản đối này hiểu được vì bất cứ cải cách nào về phương diện gíáo dục đều gây phản ứng trái ngược. Nhưng xem ra phản ứng của dư luận có phần yếu ớt và cuộc thi trắc nghiệm bậc tú tài vẫn được tiến hành cho đến 1975.

Có thể các câu hỏi trắc nghiệm lúc đầu chưa hoàn chỉnh. Báo chí mang các câu hỏi đó ra bình phẩm và chê trách. Nhưng cái xu hướng thi trắc nghiệm là điều không thể không làm.

Cái lợi thứ nhất là tránh cho học sinh khỏi bị rơi vào cái bẫy may rủi với chỉ một bài toán hay chỉ một bài luận duy nhất. Các câu hỏi dàn trải suốt cả chương trình không cho phép học sinh “học tủ.” Các câu hỏi đòi hỏi trí nhớ nhưng cũng đòi hỏi trí thông minh tránh tình trạng “học gạo.”

Áp dụng thi trắc nghiệm chỉ là làm những điều mà các nước tân tiến đã thi hành từ lâu rồi.
Bên cạnh đó vẫn còn duy trì bài luận để học sinh vẫn có thể vận dụng óc suy luận tổng hợp, khả năng trình bày biện chứng, v.v...

Cái lợi trước mắt là học trò thi trắc nghiệm nay có thể được điểm cao. Tỉ số đậu có khá hơn và các học sinh đậu bình hay bình thứ là thường.

Câu chuyện thi trắc nghiểm kể như mới đi những bước đầu dọ dẫm thì miền Nam bị rơi vào tay một chế độ không biết gì về phương pháp thi trắc nghiệm nên dẹp bỏ luôn.

Chế độ giáo dục mới giống loài tôm lúc nào cũng cựa quậy, nhưng là đi những bước lùi, giống như loài tôm hùm luôn luôn đi lùi. Ý tưởng mà tôi lấy lại của Umberto Eco trong cuốn sách của ông: À reculons, comme une écrevisse. Giật lùi giống như loài tôm hùm.

Tôi đã có kinh nghiệm chấm thi trong cả hai chế độ. Khoảng tháng chín 1975, tôi được điều động đi chấm thi tuyển vào lớp 10. Chấm xong là hết. Từ đó, tôi không còn biết số phận các bài chấm đó ra sao nữa?

Đấy sự khác biệt nó từ chỗ ấy. Ôi những con tôm hùm giáo dục của người cộng sản. Con tôm hùm giáo dục nó tiến lên bằng những bước đi lùi.

Đối với con tôm hùm, tiến có nghĩa là lùi. Tuổi trẻ bây giờ trả giá cho những chính sách sai lầm trong giáo dục từ đó đến nay. Vậy mà họ dám viết như thế này:

“Sài Gòn ‒ Thành phố Hồ Chí Minh với những kinh nghiệm giáo dục sâu sắc, cả thành tựu lần thất bại, chắc sẽ trở thành môi trường thuận lợi nhất cho một nền giáo dục và đào tạo con người vừa có nhân cách vững vàng, vừa có chuyên nghiệp, khoa học tiên tiến.”

(Trích Giáo Dục ở Sài Gòn, trong Địa chí văn hóa, trang 748). 

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Đi tìm bánh mì thịt ngon nhất Sài Gòn

Nếu phở được coi là món ăn đặc trưng của Hà Nội thì ở TP. Hồ Chí Minh chắc chắn vai trò đó là của bánh mì thịt như khẳng định của Robyn Eckhardt, cây bút nữ chuyên viết về ẩm thực và du lịch châu Á cho nhiều báo và tạp chí có uy tín.

Bài Đi tìm bánh mì ngon nhất Sài Gòn (Finding Saigon’s best banh mi) của bà được đăng trên trang mạng EatingAsia gần đây.

Theo Robyn Eckhardt, thứ bánh sandwich có hơi hướm Pháp quốc đó được khai sinh ở miền Bắc Việt Nam nhưng lại trưởng thành và lớn mạnh tại miền Nam sau năm 1954, khi nhiều người làm bánh mì rời miền Bắc di cư vào Nam vào thời điểm đất nước này bị tạm chia cắt và chế độ thực dân Pháp cũng chính thức cáo chung.

Với sự trợ giúp của Andrea Nguyen, chuyên gia về bánh mì đồng thời là tác giả cuốn sách Cẩm nang về bánh mì (The banh mi handbook), Robyn Eckhardt đã có một chuyến du hành khảo sát tại TP.HCM để xác định những địa chỉ bán bánh mì (thịt) ngon nhất.
 

Bánh mì Sài Gòn đã nổi tiếng toàn cầu

Ba điểm bán bánh mì Sài Gòn

Điểm dừng chân đầu tiên của họ là một xe bánh mì trong con hẻm trên đường Trương Định, ở đoạn giữa hai đường Ngô Thời Nhiệm và Nguyễn Đình Chiểu. Chủ nhân xe bánh mì này là chị Hoàng Thanh Mai, một người mới chỉ vào nghề bán bánh mì thịt chừng đôi ba năm trở lại đây.

Andrea Nguyen viết trong cuốn Cẩm nang về bánh mì của cô như sau: “Khi xe bánh mì của bà Mai bắt đầu một ngày bán hàng, và khi nhìn thấy món trứng được tráng trên bếp than… cái “ra đa bánh mì” của tôi khởi sự hoạt động”.

Trên chiếc xe đẩy ấy, ngoài bánh mì thịt còn có bánh mì ốp la, nhưng làm nên nét độc đáo của xe bánh mì bà Mai, theo Andrea Nguyen chính là món giò heo hấp.

Gần giống với món xúc xích heo mortadella nổi tiếng của ẩm thực Ý, giò heo là một trong ba loại thịt làm nên ổ bánh mì thịt “đặc biệt” của chị Mai: thịt xá xíu, thịt nướng và giò heo. Tất cả được nhồi vào ổ bánh cùng với pa-tê và tất nhiên không thể thiếu những phụ gia khác như xốt mayonnaise, đồ chua, xì dầu, hành…

Và để giữ chất lượng, bánh mì nóng giòn mới ra lò được đưa đến xe bánh mì của chị Mai đều đặn vài lần trong khoảng thời gian từ ba đến bốn tiếng bán hàng, đủ để chị bán chừng một trăm ổ mỗi ngày.
 

Xe bánh mì của chị Hoàng Thanh Mai

“Khéo” là từ mà Andrea Nguyen dùng để mô tả cách thao tác của chị Mai khi bán hàng cho khách, những người khoan khoái nhai từng miếng bánh mì nóng giòn với nhân thịt thơm ngon, béo ngậy pa-tê và xốt mayonnaise, hoặc đơn giản hơn là với trứng ốp la nóng hổi, vừa chín tới mà vẫn nguyên lòng đỏ.
 

Bánh mì thịt và bánh mì ốp la của chị Mai rất được thực khách trẻ ưa chuộng

Điểm đến thứ hai là tiệm bánh mì Hòa Mã trên đường Cao Thắng, nơi có món “ruột” là bánh mì ốp la chảo. Mỗi phần ăn là một ổ bánh mì và một chiếc chảo nhỏ vừa mang từ bếp ra, bên trong có trứng ốp la, xúc xích, thịt nguội, pa-tê vẫn đang xèo xèo, tỏa hương quyến rũ. Nhiều người sống ở Sài Gòn nhiều năm trước ngày 30-4-1975 cho rằng bánh mì Hòa Mã là tiệm đầu tiên bán bánh mì thịt kiểu Sài Gòn. Vào thập niên 1960 và vài năm trước đó, thành phố này chỉ có những tiệm bán bánh mì baguette kiểu Pháp, ổ dài nhỏ, đặc ruột, ăn với thịt nguội, pa-tê nhưng không kẹp vào ruột bánh.

Vợ chồng chủ nhân tiệm bánh mì Hòa Mã (lúc đó còn ở trên đường Phan Đình Phùng – giờ là Nguyễn Đình Chiểu) đã có sáng kiến làm ổ bánh mì có nhân thịt, pa-tê…, thêm ít đồ chua, dưa leo, hành ngò, ớt… rất tiện cho người ăn sáng cần tiết kiệm thời gian.

Từ đó bánh mì thịt “kiểu Sài Gòn” ra đời, “sống hùng, sống mạnh” đến ngày hôm nay, rồi theo chân những người Việt định cư ở nước ngoài sau 1975, trở thành món ăn Việt được biết đến chẳng kém gì món phở, thậm chí từ “bánh mì” đã được viết kiểu Việt Nam từ nhiều năm qua ở nước ngoài.
 

Tiệm bánh mì Hòa Mã với bà chủ Lê Thị Hạnh

“Truyền nhân” cũng là thế hệ thứ ba đang quản lý tiệm bánh mì Hòa Mã là bà Lê Thị Hạnh. Theo lời bà Hạnh thì ông nội của bà “bán bánh mì sao cho hết vào buổi sáng và dành buổi chiều để làm thơ”.

Bánh mì ở Hòa Mã là loại đặc ruột, kích thước vừa phải nhưng bên trong nhồi đầy thịt và xúc xích, pa-tê, bởi theo lời bà Hạnh: “Trừ phi đi đâu xa người ta mới cần mua một ổ bánh mì dài, còn thì khách hàng của chúng tôi thích ăn ít bánh mì mà nhiều thịt”.

Một nét đặc biệt khác ở Hòa Mã là những miếng cà rốt, củ cải trắng ngâm chua và dưa leo để ăn kèm được xắt lát dày hơn những nơi khác; và pa-tê ở đây thì mềm mượt như lụa khi được đưa vào miệng!
 

Bánh mì ốp la chảo ở Hòa Mã

Điểm đến thứ ba của Robyn Eckhardt và Andrea Nguyen là tiệm bánh mì Số 1 trên đường Nguyễn Thượng Hiền (góc đường giao với Nguyễn Thị Minh Khai), nơi không chỉ bán bánh mì thịt mà còn bán thức ăn trưa. Chủ quán, ông Trần Linh Sơn đã có thâm niên cả chục năm làm bếp nhà hàng trước khi mở tiệm vào năm 2008.

“Độc chiêu” của tiệm ông Sơn là bộ ba gia vị ăn kèm với bánh mì thịt nướng: hành lá dầu giấm, nước mắm và đậu phộng rang giã nhỏ để thay cho các loại phụ gia thông thường là xốt mayonnaise, xì dầu hay tương ớt. Ăn bánh mì thịt nướng ở tiệm Số 1 là cách thưởng thức bánh mì “thuần chất” với món thịt nướng trên lửa than cũng “thuần chất” và nước mắm “thuần Việt” vậy.
 
Cẩm nang về bánh mì của Andrea Nguyen


 
Tháng 7-2014 cuốn sách mới nhất của Andrea Nguyen chuyên về bánh mì Sài Gòn mới có mặt trên các kệ sách ở Mỹ.

Để thực hiện tác phẩm ẩm thực này, Andrea Nguyen đã dành trọn ba tháng tự tay nướng bánh mì và làm các loại bánh mì với nhân nhiều kiểu, từ đó hình thành các công thức bánh mì thịt kiểu Sài Gòn cho người đọc ở Hoa Kỳ.

Các loại bánh mì với công thức khác nhau đều được minh họa bằng ảnh chụp tuyệt đẹp của nhiếp ảnh gia Paige Green, bởi theo lời tác giả: “Mục đích của tôi là giúp người đọc đạt được thành công khi đã chuẩn bị thật tốt cho món bánh mì. Một cuốn sách hướng dẫn nấu ăn phải cung cấp cho người đọc một sự cân đối về các cách thực hành và cảm hứng nghệ thuật từ hình ảnh”.



Tác giả bài viết: LƯU HƯƠNG/DNSGCT
Nguồn tin: www.doanhnhansaigon.vn 

Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014

Ảnh hiếm về cuộc đời phía sau màn bạc của Lý Tiểu Long


Sinh thời, Lý Tiểu Long từng nói: “Bí quyết để có thể trở nên bất tử chính là sống một cuộc đời đáng nhớ”. Quả thực, 40 năm sau khi Lý Tiểu Long qua đời, người ta vẫn nhớ về anh như một huyền thoại.

Ảnh hiếm về cuộc đời phía sau màn bạc của Lý Tiểu Long 
Năm 2013 đã diễn ra hàng loạt hoạt động kỷ niệm 40 năm ngày mất của nam diễn viên huyền thoại trong dòng phim võ thuật – Lý Tiểu Long.
Người ta thường nhớ đến Lý Tiểu Long ở giai đoạn sau khi đã thành danh nhờ võ thuật, ít người biết rằng để đạt được thành công đó, Lý Tiểu Long đã phải dày công luyện tập. Anh không chỉ là một bậc thầy về võ thuật mà còn là một bậc thầy về việc tự rèn luyện, nâng cao năng lực bản thân.
Những người từng cùng luyện võ với Lý Tiểu Long khâm phục anh bởi sự ham thích tìm hiểu võ thuật đỉnh cao, niềm khao khát chinh phục những giới hạn của bản thân. Mỗi khi đạt tới một đỉnh cao mới trong việc luyện võ, Lý Tiểu Long lại tiếp tục chinh phục đỉnh cao tiếp theo, không bao giờ có ý định dừng lại hoặc tự hài lòng với bản thân bởi võ học là vô biên.
Ảnh hiếm về cuộc đời phía sau màn bạc của Lý Tiểu Long 
Đáng tiếc, con người tài ba, mẫn tiệp ấy đã sớm qua đời ở tuổi 32. Sinh thời, Lý Tiểu Long từng nói: “Không có giới hạn, chỉ có những bình nguyên, ta không được phép ở lại đó lâu, phải vượt lên trên những bình nguyên đó”.
Lý Tiểu Long không chỉ là một diễn viên võ thuật cừ khôi, anh còn khiêu vũ rất giỏi, từng giành giải vô địch tại cuộc thi khiêu vũ tổ chức ở Hồng Kông năm 1958. Có lẽ vì vậy mà cách đánh võ của anh mang một vẻ đẹp rất riêng, khó lòng bắt chước cho giống được.
Cho đến tận hôm nay, đã hơn 40 năm kể từ ngày mất của Lý Tiểu Long, những tư liệu về cuộc đời của nam diễn viên võ thuật nổi tiếng vẫn tiếp tục có những phát hiện mới thú vị. Những bức hình về cuộc đời và sự nghiệp của Lý Tiểu Long vẫn tiếp tục được bạn bè và gia đình dày công sưu tầm.
Ảnh hiếm về cuộc đời phía sau màn bạc của Lý Tiểu Long 
Lý Tiểu Long cho đến giờ vẫn là diễn viên Châu Á hiếm hoi có thể thành danh ở cả hai nền điện ảnh phương Đông và phương Tây. Anh được coi là một bậc thầy trong dòng phim võ thuật, là một biểu tượng cho văn hóa – điện ảnh giao thoa giữa phương Đông và phương Tây.
Sinh thời, nam diễn viên từng nói: “Bí quyết để có thể trở nên bất tử chính là sống một cuộc đời đáng nhớ”. Quả thực, 40 năm sau khi Lý Tiểu Long qua đời, người ta vẫn tiếp tục nhớ về anh.
Cậu bé Lý Tiểu Long bên cha mẹ.
Cậu bé Lý Tiểu Long bên cha mẹ.
Lý Tiểu Long thuở thiếu niên.
Lý Tiểu Long thuở thiếu niên.
Lý Tiểu Long thời thanh niên.Lý Tiểu Long thời thanh niên.
Lý Tiểu Long thời thanh niên.
Lý Tiểu Long thời thanh niên.
Tuổi trẻ của Lý Tiểu Long chắc chắn từng rất cuồng nhiệt.Tuổi trẻ của Lý Tiểu Long chắc chắn từng rất cuồng nhiệt.
Tuổi trẻ của Lý Tiểu Long chắc chắn từng rất cuồng nhiệt.
Tuổi trẻ của Lý Tiểu Long chắc chắn từng rất cuồng nhiệt.
Tuổi trẻ của Lý Tiểu Long chắc chắn từng rất cuồng nhiệt.
Lý Tiểu Long và sư phụ Diệp Vấn.
Lý Tiểu Long và sư phụ Diệp Vấn.
Lý Tiểu Long đã từng có lúc “nuôi râu”.Lý Tiểu Long đã từng có lúc “nuôi râu”.
Lý Tiểu Long đã từng có lúc “nuôi râu”.
Lý Tiểu Long đã từng có lúc “nuôi râu”.
Lý Tiểu Long đã từng có lúc “nuôi râu”.Lý Tiểu Long đã từng có lúc “nuôi râu”.
Lý Tiểu Long đã từng có lúc “nuôi râu”.
Lý Tiểu Long đã từng có lúc “nuôi râu”.
Lý Tiểu Long khi còn ở bên Mỹ. Các bạn bè của anh tại đây đều nói rằng Lý Tiểu Long là một người đàn ông rất có “chất Mỹ”. Anh nhanh chóng hòa nhập với cách sống, cách làm việc của các đồng nghiệp nơi đây.
Ảnh cưới của Lý Tiểu Long và vợ - cô Linda Emery.
Ảnh cưới của Lý Tiểu Long và vợ – cô Linda Emery.
Lý Tiểu Long bên vợ.
Lý Tiểu Long bên vợ.
Gia đình nhỏ của Lý Tiểu Long bên Mỹ. Anh có hai con, một trai một gái.Gia đình nhỏ của Lý Tiểu Long bên Mỹ. Anh có hai con, một trai một gái.
Gia đình nhỏ của Lý Tiểu Long bên Mỹ. Anh có hai con, một trai một gái.
Hai vợ chồng Lý Tiểu Long và con trai đầu lòng Lý Quốc Hào.Hai vợ chồng Lý Tiểu Long và con trai đầu lòng Lý Quốc Hào.
Hai vợ chồng Lý Tiểu Long và con trai đầu lòng Lý Quốc Hào.
Hai vợ chồng Lý Tiểu Long và con trai đầu lòng Lý Quốc Hào.
Hai vợ chồng Lý Tiểu Long và con trai đầu lòng Lý Quốc Hào.
Hai vợ chồng Lý Tiểu Long và con trai đầu lòng Lý Quốc Hào.
Lý Tiểu Long và con gái Lý Hương Ngưng.
Lý Tiểu Long và con gái Lý Hương Ngưng.
Lý Tiểu Long bên hai con nhỏ.
Lý Tiểu Long bên hai con nhỏ.
Lý Tiểu Long bên gia đình, họ hàng ở Trung Quốc.Lý Tiểu Long bên gia đình, họ hàng ở Trung Quốc.
Lý Tiểu Long bên gia đình, họ hàng ở Trung Quốc.
Lý Tiểu Long bên gia đình, họ hàng ở Trung Quốc.