Translate

Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Binh Danh & nhiếp ảnh trên lá cây


Nhiếp ảnh là việc tạo ra hình ảnh bằng tác động của ánh sáng với phim hoặc thiết bị nhạy sáng được thực hiện bằng các phương tiện cơ học, hóa học, hay kỹ thuật số thường được gọi là máy ảnh.

Ảnh cố định đầu tiên được chụp năm 1826 bởi Joseph Nicéphore Niépce bằng một máy ảnh hộp gỗ do Charles và Vincent Chevalier sáng chế tại Pháp. Niépce dựa trên khám phá của Johann Heinrich Schultz vào năm 1724 khi ông phát hiện hỗn hợp bạc và phấn bị đen lại khi gặp ánh sáng.
Các máy ảnh đầu tiên thường có thêm hộp trượt ra-vào để lấy độ nét. Mỗi lần thu hình, một tấm chất nhạy sáng được đặt vào chỗ màn ảnh ngắm. Quy trình “daguerreotype”, đặt theo tên của Jacques Daguerre, là dùng tấm đồng, còn quy trình “calotype”, do William Fox Talbot phát minh, thì thu hình lên tấm giấy.
Máy ảnh vào thế kỷ 19 có thân xếp để lấy nét
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi không nói đến những hình ảnh tạo ra từ máy ảnh cơ hay máy ảnh kỹ thuật số mà đề cập đến một hình thức mới lạ: “nhiếp ảnh trên lá cây” do một người Mỹ gốc Việt sáng tạo.
Nhiếp ảnh gia kiêm nghệ sĩ Binh Danh còn rất trẻ, anh chào đời tại Việt Nam ngày 9/10/1977. Gia đình Danh vượt biên năm 1979 và định cư tại Hoa Kỳ khi anh mới tròn 2 tuổi. Năm 2002 Danh tốt nghiệp San José State University với văn bằng Cử nhân Nghệ thuật (Bachelor of Fine Arts), chuyên ngành nhiếp ảnh.
Binh Danh cũng là một trong những nghệ sĩ trẻ nhất khi anh học tiếp chương trình Cao học Nghệ thuật (Master of Fine Arts) tại Stanford University khi mới 25 tuổi. Tại đây, anh chọn chủ đề nghiên cứu về “studio art”, tạm dịch là nghệ thuật phòng chụp hình.
Binh Danh
Rời khỏi Việt Nam lúc mới 2 tuổi, Danh có tham vọng muốn tìm hiểu về cuộc chiến tranh tại quê hương mà người Mỹ gọi là “Vietnam War” trong khi ở trong nước lại gọi là “Chiến tranh chống Mỹ”. Anh sưu tầm những hình ảnh về cuộc chiến và tái tạo chúng qua một kỹ thuật mới mà anh gọi là “chlorophyll print”, một hình thức in ảnh phối hợp với chất diệp lục sẵn có trên lá cây để có những tấm… "ảnh diệp lục".
Thay vì có những tấm hình in trên giấy, Danh chọn lá cây hoặc lá cỏ thích hợp ngay trong vườn nhà để in ảnh. Danh bắt đầu thử nghiệm sự kết hợp giữa nhiếp ảnh với quá trình quang hợp của lá cây: anh đặt tấm film âm bản lên lá cây, cố định chúng bằng những tấm kính, sau đó phơi chúng dưới ánh nắng mặt trời.
Anh gọi đó là "ảnh diệp lục" vì chất diệp lục của lá khi tiếp xúc với cường độ ánh sáng khác nhau sẽ chuyển thành những màu sắc khác nhau, tạo nên những chi tiết của ảnh ngay trên lá cây. Dĩ nhiên là những màu sắc kết hợp từ trạng thái diệp lục với ánh sáng mặt trời trên lá cây tạo ra một bức ảnh khác hẳn với ảnh nguyên thủy trên giấy và đó cũng là giá trị của “ảnh diệp lục”.
Tỷ lệ thành công của quá trình “ảnh diệp lục” khá thấp, khoảng 20%, nghĩa là cứ 5 tấm hình anh phơi thì chỉ một tấm thành công. Thời gian phơi có thể là vài ngày nhưng cũng có khi kéo dài hằng tuần vì lý do thời tiết. Mỗi chiếc lá sau khi được kết hợp thành công giữa nhiếp ảnh và sinh học sẽ được Binh Danh che phủ bằng nhựa thông (resin) và được đặt trong khung kính để bảo quản.
Có thể nói, Binh Danh là một nhà nhiếp ảnh không tác phẩm. Bộ sưu tập về cuộc chiến tại Việt Nam mang tựa đề Immortality, The Remnants of the Vietnam and American War” gồm 11 tấm “ảnh diệp lục”, hay nói khác đi, 11 tấm ảnh đó là của các phóng viên chiến trường được Danh dùng để tái tạo trên lá cây. Hiểu theo một nghĩa khác, đó chính là tác phẩm của anh với sự góp sức của những người khác!
Chúng tôi trình bày 11 tác phẩm này theo thứ tự thời gian thực hiện. Năm 2000 chỉ có duy nhất một bức “ảnh diệp lục” trên nền lá dài theo chiều ngang, hình ảnh một toán binh sĩ Mỹ hành quân tại miền Nam Việt Nam. Chiếc lá nền đã ngả sang màu vàng úa và người xem thấy ngay hiệu ứng của những bóng ma thể hiện qua ảnh. Thế cho nên Binh Danh đặt tên bức này là “Drifting Soul”.
Drifting Soul (2000)
Năm 2005 có tất cả 6 bức được Binh Danh thực hiện. Người ta nhận ra ngay nhóm ảnh này được chia thành 2 chủ đề: (1) chiến tranh đối với những người cầm súng; và (2) hệ quả của nó đối với những thường dân. Ở tấm hình nang tên “Battlefield” dưới đây có bóng dáng chiếc trực thăng trên lá và những người lính nổi lên giữa những đường gân lá đã ngả màu trên chiến trường. 

Battlefield (2005)
“Barracked” là bức ảnh những người lính tìm sự an toàn giữa những bao cát vây quanh. Ngoài hai người lính Mỹ đội nón sắt xuất hiện ở tiền cảnh ta còn thấy một người nhỏ con, đội nón vải ngồi phía sau. Có thể đoán ngay đó là người Việt, thường là “trung sĩ thông dịch viên đồng hóa” được phân công đi theo các đơn vị của Hoa Kỳ.     
Barracked (2005)
Làm nền cho bức hình kế tiếp chỉ là một nửa chiếc lá. Từ trên sống lá là một chiếc B52 (?) đang thả hàng loạt quả bom từ trên các tầng mây trắng xóa. Binh Danh đặt tên bức hình này là “Fire in the Sky”.
   
Fire in the Sky (2005)

Ở chùm ảnh thứ hai là những nạn nhân vô tội của chiến tranh. Trong bức ảnh Combust, những đường gân lá gợi cho người xem hình ảnh những tia sét đánh xuống thi thể người đàn ông nằm chết, trên mình chỉ còn độc chiếc quần đùi mầu đen sậm

 Combust (2005)
Hình kế tiếp là một người đàn bà ngồi ôm đứa con nhỏ, hy vọng cô bé vẫn còn sống vì một tay bám víu vai của mẹ. Người đàn bà có khuôn mặt hốt hoảng, miệng bà mở lớn có lẽ vì gào thét trong cảnh lửa đạn. Bức hình “Mother and Child” vừa sống động nhưng cũng vừa cảm động dù được thể hiện trên một chiếc lá có nhiều nếp gấp.

Mother and Child (2005)
“Part of War” là bức ảnh được Binh Danh tái hiện trên lá cây từ một tấm hình đăng trên Life của phóng viên ảnh Ronald L. Haeberle. Hình chụp thi thể nạn nhân của vụ thảm sát Mỹ Lai ngày 16/3/1968 và đã trở thành một trong những “vũ khí” hữu hiệu của những người phản chiến tại Hoa Kỳ.
Trong kho ảnh của tôi trên Flickr có tấm hình gây nhiều tranh cãi đó với gần 1.000 người xem (Xem hình tại:  http://www.flickr.com/photos/nguyen_ngoc_chinh/6101598008/in/set-72157607206524413). Và đây là bức ảnh của Ronald L. Haeberle qua kỹ thuật thể hiện trên lá cây của Binh Danh:
Part of War (2005)
Năm 2006 Danh còn thực hiện một tấm hình có liên quan đến những người dân thường trong cuộc chiến. Bức hình mang tên “Untitled” trên một chiếc lá hoàn chỉnh với đầy đủ cuống lá, gân lá. Ánh mắt của người đàn ông trong hình ngồi ôm một em bé nói lên thật nhiều điều và cũng trả lời thật nhiều câu hỏi tại sao lại có chiến tranh?   
Untitled (2006)
Lá phong vốn rất cân đối về bố cục nên được Binh Danh chọn làm nền cho một bức hình mang tên Helicopter. Người ta thấy cả một phi đội trực thăng xuất hiện trên bầu trời màu lá úa. Theo tôi, đây là một trong những bức ảnh diệp lục thành công nhất của Danh.
Helicopter (2006)
Một bức hình thành công không kém “Helicopter”“Ambush in the Leaf”, một cái tên vừa gợi ý gần lẫn ý xa. Trước mắt chúng ta thấy một bà mẹ và 2 đứa con ẩn mình qua chiếc lá nhiều cạnh, khuôn mặt của cả ba người dân quê lộ vẻ sợ hãi.
Họ sợ gì? Tôi nghĩ người mẹ đang cố tìm cách che chở những đứa con trước họng súng của một người lính. Chiến tranh là vậy, dù phần thắng nằm ở phe nào nhưng những người dân vô tội luôn nằm ở phía thua thiệt nhất.    

Ambush in the Leaf (2007)
Tác phẩm cuối cùng của bộ ảnh về chiến tranh tại Việt Nam được Danh thực hiện năm 2008. Cũng vẫn hình ảnh của những chiếc máy bay và những quả bom được in trên một chiếc lá, trông tựa như lá sen, và được bố cục theo chiều thẳng đứng. Những cái bóng chập chờn trên lá tạo cảm giác như bóng dáng của tử thần ẩn hiện trên bầu trời có sức tiêu diệt mọi sinh vật trên mặt đất.
Shock & Awe (2008)
Sau chiến tranh Binh Danh đã trở về Việt Nam và sang nước lân cận Campuchia để chứng kiến dấu tích của một thời bom đạn. Tại Campuchia, anh đã đến trại tù S-21 dưới thời Khmer Đỏ của Pol Pot mà trước đó là một trường học. Gần 14.000 người gồm đủ mọi lứa tuổi đã bị hành quyết, đến năm 1979 nơi đây chỉ còn lại vài chục người sống sót.   
Binh Danh viết về chuyến đi Campuchia: “Khi đến Bảo tàng Diệt chủng Tuol Sleng tôi mới hình dung được cảnh chết chóc… Hàng trăm chân dung những tù nhân đã bị giam giữ và thủ tiêu tại đây vẫn còn được lưu trữ, mỗi người đều mang một con số và con số đó theo họ cho đến lúc qua đời”.
Binh Danh chụp lại một số chân dung người Campuchia và khi về Mỹ anh thực hiện một bộ sưu tập 11 bức chân dung trên lá cây và trên cỏ mang chủ đề “Ancestral Altars” vào năm 2005. “Found Portrait # 24” là bức chân dung của một người đàn ông được thực hiện trên cỏ:  
Found Portrait # 24
“The Leaf Efffect: Study for Transmission # 13” là cả một nhành cây nhiều lá, mỗi chiếc lá mang chân dung của một phụ nữ, có tổng cộng 13 chiếc tượng trưng cho 13 số phận những người đã khuất.
Kỹ thuật thực hiện ảnh trên cành phức tạp hơn thực hiện trên lá vì phải sử dụng phim âm bản cho từng người. Như vậy, Binh Danh đã phải dùng tới 13 tấm phim cho 13 chiếc lá. Quả là một công trình đáng khâm phục.
The Leaf Efffect: Study for Transmission # 13
Mùa hè năm 2002, Binh Danh và mẹ về thăm lại hòn đảo Pulau Bidong, Malaysia, nơi gia đình anh đặt chân đến sau khi rời Việt Nam vào năm 1979. Danh kể lại: “Chúng tôi chụp hình và có cơ hội thu thập được nhiều giấy còn sót lại tại những căn nhà trống vắng. Giấy tờ bao gồm thư từ và hồ sơ của chính phủ Mã Lai… hầu hết đã bị mối mọt ăn hoặc bị xuyên thủng bởi cây cỏ mọc chen. Giấy tờ vẫn còn hiện diện rải rác ở đâu đó sau hơn một thập kỷ…”
Letters from Pulau Bidong Island # 1 (2003)
Letters from Pulau Bidong Island # 2 (2003)
Binh Danh còn có một bộ sưu tập chân dung những người lính Mỹ đã bỏ mình trên chiến trường Việt Nam dựa theo một trang báo của tạp chí Life năm 1969 mang tựa đề “One Week’s Dead”. Bài báo đưa tin và ảnh của 242 thanh niên Mỹ đã tử trận chỉ trong trong vòng một tuần lễ, tựa như một trang kỷ yếu (year-book) của học sinh trung học nhưng chỉ toàn là di ảnh của người chết.
14 bức chân dung được in trên lá cỏ theo chiều ngang hoặc chiều dọc. Người ta có cảm tưởng như đang chiêm ngưỡng những bức chân dung người chết tại một thảm cỏ trong nghĩa trang tĩnh lặng…
Dead Son # 1
Dead Son # 2
Bằng lối sáng tạo hình ảnh trên lá và cỏ, Binh Danh đã tái tạo nên lịch sử. Kỹ thuật nhiếp ảnh mới lạ của anh đã để lại một dấu ấn đậm nét của quá khứ, một quá khứ nhiều người muốn quên đi nhưng cũng có nhiều người muốn giữ lại. Dù cố quên hay cố nhớ, người ta không khỏi khâm phục tính sáng tạo của anh qua những bức ảnh lá cây.  
Về phần mình, Binh Danh cho biết anh tự coi mình chỉ là người thợ gốm sứ chứ không phải là nhà nhiếp ảnh đúng nghĩa của nó. Tác phẩm do anh “nhào nặn” quả thật đã để lại cho người xem nhiều suy nghĩ.
Binh Danh
***
Xem thêm Video Clip về Binh Danh trên trang web “kqed.org” tại:

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Chùa trắng ở Thái Lan


Với màu trắng tinh khiết và lối kiến trúc độc đáo, ngôi chùa đã trở thành biểu tượng văn hóa của đất nước Phật giáo Thái Lan.
Nằm ở Ban Rong Khun, cách trung tâm thành phố Chiang Rai ở miền Bắc Thái Lan 13km về phía Nam, Wat Rong Khun hay Chùa Trắng là một công trình tôn giáo mới được xây dựng những năm gần đây.
Với màu trắng tinh khiết và lối kiến trúc độc đáo, ngôi chùa đã trở thành biểu tượng văn hóa của đất nước Phật giáo Thái Lan.
Người thiết kế ngôi chùa là Chalermchai Kositpipat - một họa sĩ kiêm kiến trúc sư Thái Lan, người đã ấp ủ ý nguyện xây dựng một ngôi chùa chỉ toàn màu trắng để biểu trưng cho sự thanh cao của đạo Phật.
Từ năm 1997, khi chọn được khu đất rộng chừng 3ha tại tỉnh Chiang Rai, Chalermchai đã bắt đầu hiện thực hóa ý tưởng của mình với công trình Wat Rong Khun.
Sau gần 2 thập niên xây dựng, Wat Rong Khun đã hiện ra trong một màu trắng tinh khôi, cùng sự pha trộn kỳ lạ của kiến trúc truyền thống và siêu thực, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với những ai đến đây.
Về tổng thể, Wat Rong Khun giống như một công trình hiện ra từ thế giới cổ tích với những đường nét kiến trúc huyền ảo.
Để đi đến gian chính điện của ngôi chùa, du khách sẽ phải đi qua một cây cầu đặc biệt, phía bên dưới là hàng trăm bàn tay đang vươn lên cao.
Những bàn tay này là tượng trưng cho vô số linh hồn trầm luân trong bể khổ đang khát khao được giải thoát. Cây cầu đi trên những bàn tay là biểu tượng của sự vượt qua kiếp luân hồi để đi tới cõi Niết bàn.
Bao quanh ngôi chính điện là các hồ cá nằm giữa thảm cỏ xanh, nơi đặt những tác phẩm điêu khắc được chính họa sĩ Chalermchai thiết kế.
Mỗi bức tượng là một biểu tượng mang ý nghĩa tâm linh khác nhau của người Thái.
Các họa tiết trang trí trên mái ngôi chùa được tạo tác rất kỳ công.
Những tấm gương này tượng trưng cho trí tuệ của Đức Phật “sáng chói khắp thế giới và lan ra toàn vũ trụ”.
Không chỉ có vẻ ngoài ấn tượng, Wat Rong Khun còn gây bất ngờ với cách bài trí bên trong. Thay cho những hình ảnh Phật giáo truyền thống, các tác phẩm nghệ thuật đương đại đã được vẽ lên các vách tường. Những bức tranh này thể hiện nhiều biểu tượng văn hóa đại chúng như siêu nhân, phi thuyền… và cả những sự kiện quốc tế nóng bỏng như vụ khủng bố 11/9.
Những tác phẩm này như nhắc nhở người xem về tính chất vô thường, bất ổn và đầy khổ ải của thế giới, mà con người chỉ có thể vượt qua để đạt được hạnh phúc bằng con đường của Phật.
Đến thời điểm hiện tại, dù diện mạo của Wat Rong Khun đã định hình khá rõ nét nhưng ngôi chùa vẫn còn đang trong giai đoạn xây dựng và sẽ tiếp tục được hoàn thiện trong nhiều năm tới.
Theo kế hoạch, khi hoàn thành, toàn thể công trình sẽ gồm 9 tòa nhà bao gồm chính điện, chùa, bảo tàng, hội trường tu viện, nơi giảng dạy, gian hàng cùng các phòng tiện nghi được xây dựng trên tổng diện tích 12.000m vuông.
Đây sẽ là một trung tâm thiền định, nơi mọi người có thể học tập và thực hành Phật giáo, thấm thía lời dạy của Đức Phật.
Dù chưa xây xong, Wat Rong Khun đã trở thành một ngôi chùa nổi tiếng thế giới, thu hút hàng trăm nghìn lượt khách tham quan mỗi năm.
Đây sẽ là điểm đến không thể bỏ qua đối với du khách ghé thăm đất nước Thái Lan.
  

10 Món Ăn Đắt Đỏ Bậc Nhất

Saffron

Đây được coi là loại gia vị quý hiếm và đắt giá bậc nhất. Saffron được lấy từ nhuỵ loài hoa nghệ tây trồng ở Morocco và Iran. Sở dĩ saffron quý hơn vàng là bởi loài hoa nghệ tây này chỉ nở trong một thời gian rất ngắn, cuối tháng 10 và đầu tháng 11.

Việc thu hoạch nó cũng rất kì công. Người ta phải hái nó khi có ánh nắng mặt trời, tất nhiên, phải hái bằng tay, thật nhẹ rồi ngắt nhuỵ hoa có hình dạng giống như sợi dây nhưng lại phải hạn chế ánh nắng chiếu vào để không mất đi hương thơm. Sau đó, nhuỵ hoa sẽ được đem đi phơi nhưng chỉ phơi để nhuỵ có một độ khô nhất định nào đó, nếu không vị đắng đặc trưng của saffron sẽ không còn.

Saffron kì công đến mức, để có 1kg Saffron cần không dưới 200.000 bông hoa. Và có lẽ bởi vậy mà nó có cái giá rất chát, $3.000-6.000/1kg.
Dưa hấu Dansuke
Giống dưa hấu này từng lập kỉ lục với giá $6.100 cho một quả nặng 7kg. Theo giới ẩm thực đánh giá thì giống dưa hấu đen này có một độ ngọt và giòn cùng hương vị hơn hẳn mọi giống dưa hấu khác. Dansuke chỉ được trồng trên hòn hảo Hokkaido, ở miền bắc Nhật Bản và chỉ thổ nhưỡng của hòn đảo này mới mang lại hương vị hảo hạng cho Dansuke. Dansuke quý hiếm cũng một phần vì mỗi vụ thu hoạch chỉ chừng 65 quả.
Dưa vàng Yubari
Giống dưa vàng này được trồng ở Yubari, vẫn trên hòn đảo Hokkaido của Nhật Bản. Năm 2008, Yubari đã được bán với giá cao ngất ngưởng $26.000. Theo giới sành ăn thì chính đặc tính thổ nhưỡng và những lớp tro từ núi lửa phun trào đã mang đến cho vùng đất này những ưu đãi đặc biệt. Nhờ đó, dưa có một vị ngọt, thơm mà không một vùng đất nào sánh được.
Nấm Matsutake
Nhắc đến Matsutake, giới ẩm thực vẫn tấm tắc ngợi ca nó như vua của hương vị mùa thu hay vua của các loài nấm. Sở dĩ vậy là bởi loài nấm này chỉ có ở mùa thu và ngày càng quý hiếm. Matsutake cũng là một trong những loài nấm không thể trồng nhân tạo. Nó chỉ mọc ở khu rừng có nhiều cây tùng. Thú vị ở chỗ, cây tùng nào tốt thì nấm mọc rất ít. Và khi cây nấm đã được hái, chính tại chỗ đó sẽ không bao giờ mọc thêm một cây nấm khác. Matsutake có giá chừng $1.000/kg.
Chocopologie by Knipschildt
Loại chocolate đắt nhất thế giới này được làm bởi Chocopologie by Knipschildt. Nó có giá $2.600/pound và được làm hoàn toàn thủ công. Chứa 70% cacao Valrhona và nấm đen, Chocopologie by Knipschildt chỉ sản xuất theo đơn đặt hàng. Bí quyết của loại chocolate đắt nhất thế giới này được phát hiện bởi Fritz Knipchildt, một tay thợ làm chocolate nức tiếng của Đan Mạch. Sau đó, Fritz Knipchildt chuyển đến Anh và thành lập nhãn hiệu chocolate xa xỉ này năm 1996.
Thịt bò Kobe
Một cái tên quá quen thuộc nhưng luôn được nhắc đến trong bảng danh sách những món ăn đắt nhất thế giới. Thịt bò Kobe là sản phẩm của giống bò Wagyu nổi tiếng của Nhật Bản. Việc chăn nuôi nó là cả một câu chuyện hay ho và thú vị. Nó được cưng phụng hệt các ông hoàng, chăn nuôi bằng bia thậm chí massage và nghe nhạc Mozart, Beethoven… Việc chăm sóc khắt khe này bắt đầu ngay khi chúng vừa lọt lòng. Theo người dân ở đây cho biết, thịt bò sẽ ngon khi chúng được hạnh phúc. Đấy cũng là lý do vì sao một kg thịt bò Kobe loại đặc biệt có mức giá không dưới $1.000.
Trứng cá muối Almas
Trong tiếng Iran Almas có nghĩa là kim cương. Đấy là lý do vì sao trứng cá muối Almas được mệnh danh là ông vua trên bàn tiệc và vua của các món ăn quý tộc. Điều đó không có gì lạ bởi món ăn này có nguyên liệu chính từ những con cá tầm trắng có tuổi thọ hơn trăm tuổi. Thông thường, món ăn này có giá $8.400-15.500. Còn những sản phẩm đặc biệt của The Caviar House and Punier với hộp bằng vàng và người mua phải chờ đến …4 năm có giá tới $25.000.
Nấm trắng Truffle
Loài nấm quý tộc này từng lập một kỉ lục khiến ngay cả những người sành sỏi nhất cũng phải ngỡ ngàng $330.000 cho một cây nấm. Tuy nhiên, giá nấm Truffle thông thường dao động từ $1.360-$4.200. Loại nấm này chỉ mọc ở Italia và Croatia.
Súp yến
Được ví như “trứng cá muối của phương Đông”, món ăn này tồn tại ở Trung Hoa không dưới 400 năm. Theo giới ẩm thực, súp yến hảo hạng nhất phải từ những tổ yến ở miền Nam Trung Quốc. Đây cũng là một trong những món cao lương mĩ vị vừa có chất dinh dưỡng, vừa có khả năng chữa bệnh, làm đẹp da. Giá: $910-$4.535.
Foie Gras
Được ca tụng như một tinh hoa của ẩm thực Pháp, để có một kg gan ngỗng béo đòi hỏi phải rất kì công. Người ta phải kĩ càng từ khâu chọn giống đến khi lấy gan chế biến món ăn. Ngỗng phải tuân thủ một chế độ chăn nuôi nghiêm ngặt, đặc biệt là giai đoạn cho ăn vỗ béo trong hai tuần vào tháng thứ ba. Gan ngỗng nổi tiếng nhất được sản xuất ở vùng Périgord, tây nam nước Pháp.