Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và cho rằng “nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí”, “nền giáo dục đại học được tự trị”, và “những người có khả
năngmà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn”.
Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại
học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư
thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới
địa phương.
Tổng quan
Từ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở
Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam,
Trung, Bắc, và cả Lào cùng Campuchia. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc
có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương
trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở
Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn
ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào năm 1945, chương trình
học của Việt Nam – còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (ban hành thời chính phủ Trần Trọng Kim - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam,
vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục
cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa thì chương trình
Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương
trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ
hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.
Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa,
những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng
quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn
đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu
giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập,
vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh
giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị. Nhìn chung, người ta thấy mô
hình giáo dục ở Miền Nam Việt Namtrong
những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng
đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về
lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng
và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có một phần năm (20%)
dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục.
Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trunghọc, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số. Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện
đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Hành Chính Quốc Gia và ở các trường đại học cộng đồng).
Mặc
dù tồn tại chỉ trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề
bởi
chiến tranh vànhững bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách
eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ
(trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội
vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền
giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu
gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học
vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo
được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.
Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo cóý thức rõ ràng về sứ
mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống
cuộc sống khiêm nhường để đóng góp trọn vẹn cho nghề nghiệp, nhờ nhiều
bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc
gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến,
và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở Miền Nam Việt Nam.
Triết lý giáo dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Trần Hựu Thế,
Việt Nam Cộng Hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài
Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học
giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại
diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu họcđến đại học, từ phổ
thông đến kỹ thuật… Ba nguyên tắc “nhân bản” (humanistic), “dân tộc” (nationalistic), và “khai phóng”
được chính thức hóa ởhội nghị này. Đây là những nguyên tắc làm nền tảng
cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa, được ghi cụ thể trong tài
liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa(1967).
1. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục nhân bản.
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy
cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người
như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ
cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết
lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa cáccá nhân, nhưng không chấp
nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá conngười, và không chấp
nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôngiáo, chủng tộc…
Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như
nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
2. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục dân tộc.
Giáo
dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên
hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và
phát huy được những tinh
hoa hay những truyền thốngtốt đẹp của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính
trong văn hóa cần phải được các thếhệ biết đến, bảo tồn và phát huy, để
không bị mất đi hay tan biến trong nhữngnền văn hóa khác.
3. Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa là giáo dục khai phóng.
Tinh
thần dân tộc không nhất thiết phải bảo
thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng,
tiếpnhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp
nhận tinhthần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để
góp phần vào việchiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ
tiếp cận với văn minhthế giới.
Từ
những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đề ra
những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của
mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau
khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế
nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân
loại.
Mục tiêu giáo dục thời VNCH:
1. Phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Trong
tinh thần tôn trọng nhân cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục
hướng vào việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên
của mỗi người và theo những quy
luật phát triển tự nhiên cả về thể chất lẫn tâm lý. Nhân cách và khả
năng riêng của học sinh được lưu ý đúng mức. Cung cấp cho học sinh đầy
đủ thông tin và dữ kiện để học sinh phán đoán, lựa chọn; không che giấu
thông tin hay chỉ cung cấp những thông tin chọn lọc thiếu trung thực
theo một chủ trương, hướng đi định sẵn nào.
2. Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học
sinh.
Điều
này thực hiện bằng cách: giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi
trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử
nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết,tranh đấu
của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh
học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh
nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài
nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân
tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục
giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự
lập.
3. Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học.
Điều
này thực hiện bằng cách: giúp học sinh tổ chức những nhóm làm việc độc
lập qua đó phát triển tinh thần cộng đồng và ýthức tập thể; giúp học
sinh phát triển óc phán đoán với tinh thần trách nhiệmvà kỷ luật; giúp
phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp học sinh có khả năng
tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại.
Giáo dục tiểu học:
Bậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng Hòa gọi làlớp
Năm đến lớp Nhất).
Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập
(bắt buộc). Từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi
học ít nhất ba năm tiểu học. Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai
thi trượt phải học “đúp”, tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Số liệu giáo dục bậc tiểu học[8] | ||
---|---|---|
Niên học | Số học sinh | Số lớp học |
1955 | 400.865 | 8.191 |
1957 | 717.198[9] | |
1960 | 1.230.000[9] | |
1963 | 1.450.679 | 30.123 |
1964 | 1.554.063[10] | |
1970 | 2.556.000 | 44.104 |
Học sinh tiểu học chỉ học một
buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào
đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng Hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học,
chiếm hơn 80% tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi; 5.208 trường tiểu
học(chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long và Sa Đéc).
Tất
cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học.
Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu
học trong các trường công lậphay tốn học phí (tùy trường) tại các trường
tiểu học tư thục. Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục). Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử
địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.
Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).
Giáo dục trung học:
Tính
đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung
học, tức hơn 20% tổngsố thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18; có
534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc). Đến năm
1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ởcác trường trung học công lập. Các
trường trung học công lập nổi tiếng
thời đó có Petrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long,
Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học
(Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ
Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)… Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Tên gọi năm lớp bậc tiểu học | |
---|---|
trước 1971 | sau 1971 |
lớp năm | lớp một |
lớp tư | lớp hai |
lớp ba | lớp ba |
lớp nhì | lớp tư |
lớp nhất | lớp năm |
Tên các lớp bậc trung học đệ nhất cấp | |
lớp đệ thất | lớp sáu |
lớp đệ lục | lớp bảy |
lớp đệ ngũ | lớp tám |
lớp đệ tứ | lớp chín |
Tên các lớp trung học đệ nhị cấp | |
lớp đệ tam | lớp mười |
lớp đệ nhị | lớp 11 |
lớp đệ nhất | lớp 12 |
Trung học đệ nhất cấp:
Trung học đệ nhất cấp bao gồm từ lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1971 gọi là lớp đệ thất đến đệ
tứ), tương đương trung học cơ sở hiện
nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường
trung học công lập không dễ . Các trường trung học công lập hàngnăm đều
tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1971 gọi là lớp 6), kỳ thi có
tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng
62%); tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những
học sinhkhông vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục
nhưng phải trảhọc phí. Một năm học được chia thành hai
“lục cá nguyệt”
(hay “học kỳ”). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ,
thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp, môn Công dân giáo dục tiếp tục với
lượng 2 giờ mỗi tuần. Từ năm 1966 trở đi, môn võVovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường. Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp.
Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần
vấn đáp rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi
bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét