Translate

Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

Người cao niên sử dụng computer


image
Nghiên cứu cho thấy người cao niên sẽ giúp trí nhớ nếu chịu khó lên mạng Internet.
Theo kết quả nghiên cứu được trình bày tại cuộc hội thảo thường niên của Hội Society for Neuroscience thì người cao niên có thể thay đổi tình trạng minh mẫn và tránh được bệnh hay quên ngắn hạn của tuổi già nếu chịu khó làm việc tìm tòi trên Internet.

Một toán chuyên gia của đại học Los Angeles đã “scan” não bộ của 24 cụ cao niên (một nửa là những cụ thường xuyên lên internet còn nửa kia thì không) với mục đích tìm xem Internet tác động ra sao lên não bộ các người già.

Nhóm cao niên “lười lên internet” được chỉ dẫn cách sử dụng máy điện toán căn bản rồi được yêu cầu khi về nhà vào internet trung bình mỗi ngày 7 tiếng trong suốt 2 tuần lễ liên tục. Khi họ quay trở lại, các chuyên gia đã sử dụng máy MRI để “scan” não bộ của họ thì thấy lượng máu đổ dồn nhiều hơn vào các mạch máu nhỏ của não bộ. Có nhiều vùng của não bộ đã được tiếp máu nhiều hơn so với trước khi làm thí nghiệm.

image
Các nhà khoa học ví não bộ của các cụ cao niên trước đây “lười lên internet” giống như một bộ máy xe hơi được nhấn ga tăng tốc độ chỉ sau 2 tuần lễ “lượn ngang dọc” trên mạng (Net). Các cụ thuộc nhóm này có tuổi trung bình là 66.8 tuổi.

Trước đây não bộ cũa các cụ này sử dụng đến nhiều vùng có liên kết với thị giác, phán xét, nhận thức không gian trong cuộc sống hàng ngày. Sau 2 tuần lễ các cụ đọc tin và làm việc với máy điện toán, các nhà nghiên cứu nhận thấy ngoài các vùng nói trên, những vùng khác trong não bộ của các cụ cũng bừng sáng.

Đặc biệt vùng não gọi là hồi trán (frontal gyrus) phía trước và trung bộ đã được kích động mạnh mẽ. Đó là những vùng được biết là có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định, trí nhớ và các giải quyết cấp thời. Chúng có khả năng giúp các cụ cao niên tập trung mạnh mẽ hơn, ít bị đãng trí.

image
Các nhà khoa học còn nhận thấy là sau cuộc thí nghiệm não bộ của các cụ trước “lười lên internet” nay đã có sức sống giống như não bộ của các cụ thường xuyên sử dụng internet.
Các cụ thuộc nhóm sau này có tuổi bình quân là 62.4 tuổi. Ngoài ra khi yêu cầu nhóm sau này cũng làm các thao tác giống như nhóm thứ nhất, các nhà khoa học nhận thấy là não bộ của họ đã “sử dụng ít sức mạnh hơn”, có vẻ như tại vì não “đã nhận ra các thao tác quen thuộc” khi lên internet và cảm thấy các thao tác đó dễ dàng hơn rất nhiều.

Bác sĩ thần kinh Gary Small, người tham gia vào công cuộc nghiên cứu, nhận định như sau “kết quả cho thấy là những cao niên nào muốn trí nhớ của họ sắc bén trở lại thì không gì hơn là mở “dụng cụ ở trong tầm các ngón tay của họ”. Ông cũng nói có vẻ như xã hội văn minh với nhiều thao tác kỹ thuật phức tạp đã làm trí não con người trẻ lại theo những cách mà “ngay cả khoa học cũng chưa hiểu tường tận”.

(theo LosAngeles Time- HuynhQuang-CaliToDay)
Xử dụng internet có thể giúp chức năng nhận thức của não

image
Các nhà nghiên cứu tại Đại học UCLA (California) đã chứng tỏ là trong khi bạn sử dụng internet đễ tìm kiếm các thông tin, gởi thư điện tử cho con cháu, mua sách trên mạng… bạn đã gia tăng khả năng nhận thức của não mà không hay biết.

Cho tới nay người ta vẫn thường khuyên các người lớn tuổi nên chơi ô chữ, các trò chơi đố (puzzles), các trò đố vui (quizzes), sodoku… tất cả chỉ với mục đích giữ cho chất xám trong não hoạt động tốt.
Nhưng từ nay trở đi, chúng ta cũng còn có thể khuyến khích các người lớn tuổi nên “bay lượn” trên mạng.


image
Thật vậy, tạp chí khoa học uy tín American Journal of Geriatric Psychiatry vừa đăng tải một báo cáo của các nhà nghiện cứu thuộc Đại học UCLA cho biết là đối với các cao niên thường xuyên tìm kiếm thông tin trên internet, một số trung tâm chủ yếu trong não cũa họ có chức năng kiểm soát tiến trình quyết định và suy luận phức tạp đã đươc kích thích. Nói một cách cụ thể hơn thì kết quả nghiên cứu trên đây chứng tỏ là các hoạt động tìm kiếm trên mạng có thể đóng góp vào việc kích thích – và ngay cả giúp – các chức năng của não.

Trong thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã quan sát 24 người có tuổi tử 55 tới 76. Phân nửa những người này có thói quen tìm kiếm thông tin trên internet, còn phân nửa kia thì không. Cả hai nhóm đều giống nhau về tuổi tác, trỉnh độ học vấn và phái tính.

image
Tất cả số người trên đây đều đươc scan não với máy chụp từ trường (RMI) trong khi họ đọc sách hoặc tìm kiếm thông tin trên mạng. Máy RMI ghi các biến đổi trong các mạch não, hay nói rõ hơn máy này dò tìm cường độ phản ứng của các tế bào não bằng cách đo sức chảy của các luồng máu.Kết quả cho thấy:

- Trong thí nghiệm đọc, não cũa tất cả các cao niên đều hoạt động mạnh, nhất là tại những trung tâm ngôn ngữ, đọc, trí nhớ và thị giác nằm ở các thuỳ thái dương (temporal), thùy đỉnh (parietal) và thùy chẩm (occipital) của não
- Trái lại trong thí nghiệm Internet các nhà nghiên cứu đã phát hiện một sự khác biệt rõ rệt giữa hai nhóm đọc và sử dụng internet. Đó là nếu não của nhóm người đọc sách hoạt động mạnh thì não của nhóm “internet” lại hoạt động mạnh hơn ở các vùng thùy trán (frontal) và thùy thái dương (temporal), cũng như ở các hổi chẫm não (circonvolutions cingulaires) kiểm soát tiến trình quyết định và lý luận phức tạp

image
Giáo sư Gary Small, trưởng nhóm nghiên cứu nói: “Điều đáng chú ý trong phát hiện của chúng tôi là các hoạt động tìm kiếm thông tin trên mạng đã kích đông các mạch neuron mà việc đọc sách không gây ra được.” Ông nói tiếp “ Một hoạt đông hàng ngày đơn giản như tìm kiếm thông tin trên mạng dường như có thể giúp sư vận hành của não. Điều này chứng tỏ là tuy già người ta vẫn có thể tiếp tục học hỏi“. Giáo sư Gary Small cho biết thêm là nhóm của ông sẽ còn tiếp tục nghiên cứu thêm.Ngày càng nhiều cao niên sử dụng Intenet

image
Theo cuộc thăm dò mới đây của CSA (Pháp) thì đã có 46 phần trăm những người trên 50 tuổi sử dụng internet để tiếp xúc với bạn bè người thân, trau dồi kiến thức và quản lý đời sống hàng ngày. Một cuôc thăm dò tương tự tại Hoa kỳ cũng xác nhận là ngày càng có nhiều những người thuộc lứa tuổi 50/60 vào internet. Điều này sẽ tạo một cơ hội tốt đẹp cho ngành thương mại trên internet.
Chỉ cách đây có bốn hay năm năm, phần lớn các cao niên đều không tưởng tượng là một ngày nào đó họ sẽ có thể “bay lượn” trên internet. Tuy nhiên sự phổ biến của internet cao tốc, sự giảm giá cả các dụng cụ điện tử và khiá cạnh “không thể tránh đươc” của kỹ thuật này đã lôi cuốn các người tuổi trên 50 vào mạng lưới điện tử.

Thật vậy theo như cuộc thăm dò mới đây của CSA đã có tới 46 phần trăm người trong lứa tuổi 50/60 sử dụng internet và đa số (80 phần trăm) những người này coi mạng lưới là cửa ngõ đi vào thế giới bên ngoài..

image
Nói rõ hơn, mạng lưới là một cuốn tự điển bách khoa vĩ đại, một phương tiện kỳ diệu giúp chúng ta chu du khắp nơi trong khi vẫn ngồi nhà. Mạng lưới cũng còn là một trong những phương tiện tốt nhất để giữ liên lạc với gia đình, và nhất là với các cháu nội ngoại đôi khi sinh sống ở tận bên kia nước Pháp hay ngay cả bên kia đại dương. Cụ Monique, 61 tuổi, tâm sự: “Đứa cháu tôi được tham gia chương trình trao đổi sinh viên tại ngoại quốc. Cháu nó mở một trang blog về hành trình của nó nên tôi có thể theo dõi sinh hoạt của nó mà chẳng cần nó phải gọi điện thoại về cho tôi mỗi tuần. Thật là tiện lợi”. Mặt khác cụ Marie, 58 tuổi rất vui mừng khi nhận đươc những bức ảnh đầu tiên của cháu mình chỉ một ngày sau khi đứa cháu ra đời ở cách Paris cả ngàn cây số.

image
Một cuộc thăm dò khác tại Hoa kỳ do reserchandmarket.com thực hiện đã cho biết là số người trên 60 tuổi sử dụng internet sẽ tăng trong những năm tới và khuynh hướng này sẽ tạo một cơ hội rất lớn cho thị trường thương mại. Cuôc thăm dò cũng cho thấy là trong năm năm nữa, số người cao niên sử dụng internet ít nhất một lần mỗi tháng sẽ tăng từ 58.2 triệu lên tới 63.7 triệu.

Theo cuộc điều tra của grandparents.com, thì hiện nay tại Hoa kỳ đã có tới phân nửa các bậc ông bà sử dụng Internet từ 10 tiếng trở lên mỗi tuần để mua sắm (69%), so sánh giá cả (83%), theo dõi quảng cáo (38%), trao đổi hình ảnh (78%).

Tưởng cũng nên biết là grandparents.com là nguồn thông tin trên mạng chính yếu dành cho các bậc ông bà tại Hoa kỳ. Trang web này tạo phương tiện duy trì các mối liên hệ và thắt chặt tình cảm gia đình. Nội dung trang web này rất phong phú bao gồm các tin tức về hoạt động xã hội, các gợi ý tổ chức du lịch cho cả gia đình hay mua quà tặng cho mọi lứa tuổi… Ngoài ra sự trao đổi liên thế hệ giữa ông bà, cha mẹ, con cái cũng được dễ dàng hơn nhờ vào blog, diễn đàn, hình ảnh và video.

image
Sau hết, một nghiên cứu do Demos thực hiện tại Anh nhấn mạnh là internet có thể trở thành một yếu tố giao tiếp xã hội hết sức quan trọng đối với người già nhưng hiện nay hãy còn nhiều trở ngại. Các chuyên gia đề nghi cần phải phát triển những thiết bị thích hợp cho người già cũng như tổ chức những lớp dạy dành riêng cho họ vì nếu không một phần lớn số người cao niên sẽ đương nhiên bị gạt bỏ. Hơn nữa, trong những năm tới số dịch vụ được cung cấp chính yếu qua mạng lưới điện tử ngày càng nhiều.

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Cách phân biệt cà phê thật và phụ gia độc hại


image
Vài năm gần đây, ngoài phụ gia, còn có nhiều loại hóa chất độc hại được cho vào cà phê. Không chỉ dùng chất độn, có loại "cà phê" hoàn toàn sử dụng đậu nành trộn với hóa chất không rõ nguồn gốc, như đã bị phanh phui trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trước thực trạng này, để tránh nhầm lẫn khi đi mua cà phê, người tiêu dung cần có kiến thức căn bản về cà phê.

Xét theo xu hướng tiêu dùng, trên thế giới hiện có 3 loại cà phê như sau:
Loại thứ nhất là cà phê 100% thiên nhiên, đỉnh cao của loại này là cà phê hữu cơ. Cà phê hữu cơ được chế biến từ nhũng hạt cà phê được trồng, chăm bón một cách hữu cơ, tức là loại bỏ tất cả các yếu tố vô cơ như phân hóa học, thuốc trừ sâu….. 

image
Loại thứ hai là cà phê có sử dụng hương liệu. Loại này các nhãn hiệu đa quốc gia thường sản xuất. Mục đính chính của việc sử dụng hương liệu là nhằm đồng nhất hương vị của sản phẩm, dù nó được sản xuất từ nguyên liệu cà phê nào, tại quốc gia nào.

Loại thứ ba là cà phê có sử dụng hương liệu và pha độn một số thành phần khác như socola, ca cao, chicory, các chất thay thế cà phê khác. Riêng Việt nam hiện nay, thành phần phụ gia còn có cả đậu nành, bắp, bơ, nước mắm…. 


image
Cà phê được coi là thật khi là một trong ba loại kể trên và nhà sản xuất công bố rõ thành phần của loại đó trên bao bì sản phẩm.

Việc không công bố đúng, đủ hoặc công bố sai sự thật trên bao bì sản phẩm bị coi là làm cà phê giả. Cà phê giả ở Việt Nam chủ yếu là loại cà phê thứ 3 nêu trên, nhưng trên bao bì ghi thành phần giống như loại 1. Nguy hiểm hơn các thành phần cho thêm vào cà phê còn độc hại vì có cả các hóa chất không dùng cho thực phẩm, không rõ nguồn gốc xuất xứ.


image
Cách nhận biết cà phê thật – giả: Với cà phê rang xay (pha phin): 
Có 2 cách có thể sử dụng riêng hoặc phối hợp để kiểm tra như sau:
Cách 1: quan sát bột cà phê: Cà phê rang xay nguyên chất màu sắc và kích thước bột cà phê thường đồng nhất, bột cà phê tơi xốp. Cà phê pha tẩm độn có màu sắc không đồng nhất do trộn nhiều loại nguyên liệu được rang xay riêng. Bột cà phê pha tẩm không tơi xốp, độ ẩm cao hơn.
Cách 2: một thí nghiệm nhỏ, có thể tự làm ở nhà:
Đổ nước nguội đầy 2/3 ly thủy tinh, sau đó rắc nhẹ khoảng 2 muỗng bột cà phê lên trên mặt nước trong ly và quan sát.
Cà phê nguyên chất sẽ nổi rất lâu trên mặt nước. Sau khoảng 10 phút, bột cà phê bắt đầu chìm từ từ từng ít một. Khi cà phê chìm, màu nâu mới phai ra nước và tạo thành một dung dịch màu cánh gián trong trẻo (do các chất tan chỉ tiết ra khỏi bột cà phê khi gặp nước nước sôi).
Ngược lại, cà phê pha độn chìm rất nhanh, có loại chìm ngay lập tức, lâu nhất cũng chỉ khoảng 5 phút. Pha độn càng nhiều, bột càng nhanh chìm xuống đáy ly và có khi chìm cả mảng lớn. Màu nâu đen phai ra trong nước ngay lập tức và nước vẩn đục không trong.

image
Hãi hùng cà phê “đểu”
Với cà phê hòa tan: Phổ biến ở VN hiện nay là cà phê hòa tan 3 trong 1. Cà phê 3 trong 1 gồm có đường mía, bột kem làm từ tinh dầu cọ và cà phê hòa tan nên khi pha ra, chúng ta chỉ cảm nhận được 3 vị đó. Nếu có độn đậu nành, bắp, để ý kỹ, có thể thấy vị béo của bắp, đậu nành trộn lẫn trong vị ngọt đường mía và hậu vị béo của tinh dầu cọ. Cà phê có sử dụng hóa chất tạo mùi thơm sực nức ngay khi vừa mở gói ra nhưng hương thơm ấy nhanh chóng mất đi khi ly cà phê đã nguội. Cà phê thiên nhiên có hương thơm dịu nhẹ nhưng bền lâu. Khi ly cà phê đã nguội hẳn, chúng ta vẫn thấy thơm. Một lưu ý rằng cả hai yếu tố dịu nhẹ và bền lâu của hương phải đi cùng với nhau mới là cà phê thiên nhiên. Nếu thơm sộc nhưng vẫn bền hương thì sản phẩm đó có thể có chứa chất cầm hương. Chất cầm hương dùng cho thực phẩm chất lượng cao thường rất đắt tiền. Loại rẻ tiền thì lại không an toàn cho sức khỏe. Dựa vào thử nếm như trên và quan sát bao bì, ta có thể biết đâu là cà phê thật và đâu là cà phê giả.

image
Và để tránh rủi ro, nên chọn cà phê thiên nhiên. Nếu thích cà phê hương liệu, phụ gia thì nên chọn nhãn hiệu công bố rõ ràng thành phần trên bao bì. Việc ghi rõ thành phần chất phụ gia cho thấy nhà sản xuất trung thực. Sự trung thực ấy thể hiện cam kết của họ về tính an toàn của các loại phụ gia mà họ đã cho thêm vào cà phê.

Hà Cúc

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Bí Mật Sự Thật Ít Biết Về Lễ Tạ Ơn

- Bạn có biết Lễ Tạ ơn là ngày mà người dân Mỹ tiêu thụ khoảng 46 triệu con gà tây vào thứ 5, tuần thứ 4 của tháng 11 hàng năm?
 
alt
 
Bữa ăn trong ngày Lễ Tạ ơn: Trong thực đơn ăn uống vào Ngày Lễ Tạ ơn, người theo đạo Công giáo không thể bỏ qua một chú gà tây và nước sốt nam việt quất. Ước tính có khoảng 254 triệu con gà tây được nuôi và giết mổ tại Mỹ trong năm 2012, tăng 2% so với năm 2011. Con số trên do Cục thống kê Nông nghiệp Quốc gia Mỹ công bố.
 
alt
 
Khoảng 46 triệu con gà tây được làm thịt trong ngày Lễ Tạ ơn hay người dân Mỹ đã tiêu thụ khoảng 334 triệu kg thịt gà tây trong ngày đặc biệt này. 
 
alt
 
Minnesota là tiểu bang dẫn đầu trong lĩnh vực nuôi gà tây tại Mỹ. Đứng tiếp theo là Bắc Carolina, Arkansas, Missouri, Virginia, Indiana và California. Nông dân Mỹ cũng sản xuất khoảng 348 triệu kg nam việt quất vào năm 2012. Những nơi sản xuất nam việt quất hàng đầu là Wisconsin và Massachusetts
 
alt
 
Mỹ cũng trồng 1,18 tỷ kg khoai tây ngọt ở Bắc Carolina, Mississippi, California và Louisiana và sản xuất hơn 544 triệu kg bí ngô. Bang Illinois, California, Pennsylvania , Ohio là những nơi trồng bí ngô lớn mạnh nhất ở Mỹ.
 
alt
 
Thực đơn Lễ Tạ ơn đầu tiên: Bữa ăn tối vào ngày Lễ Tạ Ơn đầu tiên diễn ra ở Plimoth (còn được đánh vần là Plymouth ) vào tháng 10/1621, với sự tham dự của 50 người thực dân Anh và khoảng 90 nam giới Mỹ bản địa Wampanoag mà bây giờ là tiểu bang Massachusetts. "Chúng tôi không có nhiều thông tin về những gì đã có trên bàn ăn vào ngày Lễ Tạ ơn đó", Kathleen Wall ở Plimoth Plantation cho hay.
 
alt
 
Chúng ta chỉ biết rằng, người Wampanoag đã giết 5 con nai vào ngày lễ đó cũng như người Anh đã săn bắn nhiều loại động vật hoang dã như chim bồ câu, gà tây, ngỗng, vịt, chim cút. Trong một số trường hợp, người ta còn sử dụng ngô Ấn Độ.
 
alt
 
Ngô là một thực phẩm mới của con người và họ chỉ đang học cách sử dụng nó. Họ nấu chín ngô vào cháo yến mạch giống như món ăn hiện nay", Wall giải thích. Wall cũng cho hay những vị khách dự tiệc ăn các món theo mùa và có khả năng bổ sung thịt nai, các loài chim với cá, sò, cá chình, những loại hạt cũng như rau xanh, bí ngô, bí, cà rốt, đậu Hà Lan vào thực đơn ăn uống giàu chất dinh dưỡng trong ngày Lễ Tạ ơn.
 
alt
 
Giống như nhiều vị khách hiện đại được mời đến dự ăn tối trong ngày đặc biệt ấy, họ rất ngạc nhiên bởi số lượng và sự đa dạng của những món ăn được bày biện trên bàn tiệc.
 
alt
 
Một thời gian trước khi diễn ra Lễ Tạ ơn đầu tiên, người Mỹ bản địa, người châu Âu và những người dân đến từ các nền văn hóa khác nhau trên thế giới thường tổ chức lễ hội vào mùa thu hoạch để tỏ lòng biết ơn một mùa vụ bội thu đã cung cấp lương thực dồi dào, giúp con người tiếp tục duy trì cuộc sống. Năm 1541, Francisco Vásquez de Coronado (người Tây Ban Nha) và binh sĩ của ông đã tổ chức "Lễ Tạ ơn" trong khi tìm kiếm vùng đất mang tên "Thế giới vàng mới" mà bây giờ là Panhandle Texas.
 
alt
 
Sau đó, người ta tổ chức ngày lễ như vậy tại Jacksonville, Florida (năm 1564). Thực dân Anh và người Abenaki (Ấn Độ) cũng tổ chức lễ hội này tại sông Kennebec, bang Maine (năm 1607) và ở Jamestown, Virginia (năm 1610). Nhưng đến năm 1621, Lễ Tạ ơn ở Plimoth được cho là có mối liên hệ với nguồn gốc ra đời của ngày lễ này hiện nay. Theo các chuyên gia, Lễ Tạ ơn "thực sự" đầu tiên diễn ra vào hai thế kỷ sau đó.
 
alt
 
Tất cả những điều chúng ta biết về ngày lễ kéo dài 3 ngày ở Plimoth xuất phát từ mô tả trong lá thư được viết vào năm 1621 của Edward Winslow, lãnh đạo của Plimoth Colony. Lá thư đã biến mất trong 200 năm và được tái phát hiện trong những năm 1800.
 
alt
 
Năm 1841, nhà xuất bản Boston Alexander Young đã viết về Lễ Tạ ơn đầu tiên vào năm 1621. Trong thư, ngày lễ đó được miêu tả là sự kiện chỉ diễn ra một lần đánh dấu mùa thu hoạch trong thế kỷ XVII.
 
alt
 
Nhưng vào giữa những năm 1800, Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln tuyên bố ngày Lễ Tạ ơn là một trong những ngày lễ quốc gia vào năm 1863. Năm 1941, Tổng thống Franklin Roosevelt quyết định ngày Lễ Tạ ơn sẽ rơi vào thứ năm, tuần thứ 4 của tháng 11.
 
 
Songthy - Sưu tầm

HOA SÚNG VƯỜN GIVERNY CỦA CLAUDE MONET


Bài và ảnh Võ Quang Yến
Muốn ăn bông súng mắm kho,.
Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm
Ca dao Nam Bộ
Ở điểm hợp lưu hai dòng sông Seine và Epte tại miền Haute-Normandie, gần vùng Vexin, có một cái làng nhỏ thời trước mang tên Givermiacum, nay gọi Giverny. Năm 1883, họa sĩ Claude Monet lại đây thuê rồi mua một cái nhà trước có một mảnh đất lớn. Ông cho đào một cánh của sông Epte để xây một vườn hoa. Sau đó ông mua thêm đất mở rộng vườn hoa. Ngày nay vườn Giverny phân biệt rõ hai phần: một vừờn trồng hoa đủ loại trước nhà gọi là Clos Normand rộng khoảng một hecta và một vườn nước phong cách Nhật Bản bên kia đuờng, hai phần đối chiếu nhau và bổ túc nhau.
 
Claude Monet
Ảnh Nadar 1899
Claude Monet
Tranh tự họa 1896
Khi Monet và gia đình lại định cư ở đây, từ nhà xuống đường là một vườn cây ăn quả, phần lớn là cây táo, có một bức tuờng đá bao quanh. Giữa vuờn, một lối đi trồng thông cây cao bóng mát. Ông cho đốn tất cả các cây thông, chỉ giữ lại hai cây thông đỏ (if ) gần nhà theo yêu cầu của bà vợ Alice. Ông cho cắt vườn thành những băng dài rồi cho trồng hoa đủ loại trên các lùm cao thấp khác nhau gây ra những thể tích cân đối, trong một khung cảnh màu sắc chan hòa. Những cây có trái chen vai với những cây nở hoa. Ngang đất những cây hoa huệ (lis), sen cạn (capucine), thược dược (dalhia), xen lẫn với các loại cây hoa cúc (chrysanthème), đỗ quyên (rhododendron), mộc qua (cognassier)... ; trên cao những nhánh hoa hồng leo đu đưa giữa các cành hoa thục quỳ (rose trémière) uyển chuyển, những cành hoa sơn maị (seringat) thơm phứt một vùng. Những cây hoa hồng leo còn tự do trèo lan khắp các lan can hay trên các vòm cầu vươn qua các lối đi. Ông Monet không thích tổ chức ngăn nắp các cây hoa, ông chỉ chú trọng màu sắc để sắp đặt chỗ trồng rồi mặc cây tự do lớn lên, phát triển theo ý muốn. Mãi miết trồng hoa, ông trở ra đam mê thực vật học, trao đổi cây hoa với những láng diềng, lắm khi còn đặt mua từ xa những mầm cây hay hành cây quý. Ông thường tự thú : bao nhiều tiền của của tôi đều đổ vào vườn hoa, nhưng bù lại tôi cũng rất vô cùng vui thích trong ngôi vườn của tôi.
Mười năm sau khi lại đây, sau khi mua cái nhà ở thuê, ông Monet mua tiếp mảnh đất cạnh nhà, bên kia đường rầy xe lửa, có môt ngòi nước nhỏ mang tên thông thường Ru chảy ngang qua. Mặc dù các người láng giềng chống đối vì sợ ông trồng những hoa lạ có thể làm ô nhiễm môi trường, hư hại sông hồ, nhưng được sự ủng hộ của vị tỉnh trưởng, ông bắt đầu cho xây dựng một vườn nước. Ông bảo, để vui thú xem hoa, ông chỉ trồng những cây thường mọc trong vùng như hoa súng, hoa iris (đuôi diều), những loại cây sậy,... thì không gây độc cho đất đai, sông ngòi. Vườn ngày càng lớn thêm. Dựa theo những tranh khuôn rập Nhật Bản mà ông đã nhiệt tâm sưu tầm, ông hướng tổ chức theo lối vườn Phù Tang, từ những nét cong đến cách sắp đặt không đối xứng các lùm hoa cũng như các lối đi. Khách dạo xem gặp rất nhiều cầu, núp bóng dưới những cây liễu rủ hay lấp loáng sau các lùm tre. Được đặc biệt chú ý là chiếc cầu vồng Nhật Bản màu lục hòa mình với những cành hoa glycine (dây đậu tía) tim tím nổi bật trên nền xanh cây lá xung quanh. Trong thư viết cho ông tỉnh trưởng, ông còn tâm sự : đối với tôi, hoa không chỉ để ngắm mà còn là một đề tài để vẽ.
Trước mắt một họa sĩ, vườn hoa là cả một phong cảnh để ông mặc sức chọn lựa đề tài. Hoa muôn màu đủ loại thay sắc theo mùa. Mùa xuân các hoa báo xuân (primevère), hoa bướm (pensée), nghệ tây (crocus), đuôi diều (iris), mẫu đơn (pivoine), vành khăn (tulipe), tai chuột (myosotis), bồ câu (ancolie),... sặc sỡ giữa những đám hoa thuốc phiện (pavot) phất phơ đỏ chói. Qua hè đến thu, những hoa cẩm chướng (oeillet), hoa chuông (campanule), hoa xôn (sauge), phụ tử (aconite), lạc tiên (passiflore), liễu diệp (épilobe) , chân ngỗng (anémone), ,... đua màu với những loại cúc : cúc xoè (rudbeckia), cúc sao (aster), cúc mắt bò (delphinium)... Đây cũng là lúc các lá cây đổi màu từ xanh qua vàng rồi thành đỏ : những cây thích (érable), cây dẻ (marronnier), cây đoạn (tilleul), cây táo (pommier), cây đào (cerisier), cây mun (cutise),... đua nhau trổ bày sắc đẹp. Khi có ánh mặt trời xuyên qua túp lá khe khẽ rung rinh trong gió, màu sắc nổi bật lấp loáng trông như những chiếc lồng đèn chập chờn trong đêm. Tạo vật tưởng như trút đổ bao nhiêu sức lực còn lại trong năm vào một ngọn lửa cuối cùng đến sưởi nóng cây trước khi những chiếc lá lần lượt rụng hết để cây yên tĩnh ngủ dài mấy tháng mùa đông rét mướt.
Trong số các hoa trong vườn, có lẽ hoa súng được ông Monet ưa chuộng và vẽ nhiều nhất. Nhưng hoa súng không phải đột nhiên hiện vào tranh ông. Nghệ thuật vẽ của ông đã trải qua biết bao đoạn đường. Suốt đời, từ lúc sinh ra ở Paris năm 1840, lớn lên ở Le Havre, ông luôn trung thành với một ý tuởng đón nhận và truyền đạt theo tri giác. Thuở còn ở trường trung học, ông đã thích vẽ những tranh biếm họa đem trưng bày ở tiệm bán dụng cụ vẽ. Họa sĩ Eugène Boudin găp ở đây thành công kéo ông ra vẽ ngoài trời. Sau nầy Monet tâm sự định mệnh vẽ vời của ông là nhờ đã giao du với một họa sĩ yêu nghệ thuật và tính tự lập như Boudin. Tuy gia đình đồng ý cho ông theo dõi ngành vẽ nhưng bất đồng thấy ông không chịu học tập trong một trường chính thức. Rút cuộc ông vào làm ở Académie Suisse (Học viện Thụy sĩ) tại Paris. Ở đây, ông tiếp xúc với những họa sĩ có tiếng như Pizzaro, Cézanne. Trong thời kỳ quân dịch bên nước Algérie, năm 1861 ông bị bệnh thương hàn. Trở về lại Pháp, ông lại làm việc với Boudin và nhất là với Jongkind, một họa sĩ phong cảnh người Hòa Lan. Monet chịu nhận ông nầy đã giáo huấn hoàn toàn con mắt của ông và chính là sư phụ thực sự của mình.
Như được soi sáng, từ nay Monet chịu học hành đứng đắn hơn. Ông vào học Ecole d'Art de Paris (Trường Nghệ thuật Paris), đặc biệt theo dõi xưởng vẻ của giáo sư Charles Greyre. Những bạn của ông hồi ấy là Bazille, Renoir, Sisley. Cả bọn thường cùng nhau đi lại ở Café Guerbois, nơi họ có dịp gặp gỡ Emile Zola, Edouard Manet. Tiến hoá kinh tế, xã hội, văn hóa thế kỷ 19 đem đến một kết quả là phóng thích những nghệ sĩ : từ nay họ hết còn phải phụng sự một ông hoàng, bà chúa nào. Nhưng những họa sĩ tự lập từ nay cũng phải tự nuôi sống và tìm lấy nơi triễn lãm, thương lượng với những nhà buôn nghệ thuật và những nhà hàng tranh. Ở Pháp, một nơi triển lãm quan trọng không tránh được là Le Salon de Paris (Phòng Triển lãm Paris). Nhưng họa sĩ thì đông mà chỗ thí ít, chỉ trong năm 1863, trên số 5000 yêu cầu của 3000 họa sĩ có đến 4000 bị từ chối, gây ra phong trào Le Salon des Refusés (Phòng tranh những Người bị từ chối) ! Hiển nhiên, các họa sĩ bị từ chối không khỏi đặt câu hỏi về cá tính nghệ thuật của mình, trừ Cézanne được chấp nhận tức khác, còn Monet thì phải đợi đến 1865. Nhờ Bazille giúp đở về mặt tài chính, Monet không đến nổi quá nghèo và có khả năng đi vẽ ngoài trời quanh Paris hay ở vùng biển Normand không quá xa. Đây là nơi ánh sáng và màu sắc đặc biệt hòa hợp với nhau.
Một khúc ngoặc quan trọng trong cuộc đời nghệ sĩ của Monet là vào năm 1869 khi có dịp cùng vẽ với Renoir ở La Grenouillère, một địa điểm giải trí gần Paris, nơi có thể bơi lội, chèo thuyền, có quán ăn trên nước,... Ở đây, viø hoạt động náo nhiệt xung quanh, cần phải vẽ những nét màu sắc lanh chóng, rắn rỏi. Làm được như vậy cũng là nhờ hoá học đã cho ra đời những ống màu, họa sĩ khỏi mất thì giờ trộn màu. Kết quả là các bức tranh cho thoát ra một phong cách nghệ thuật mới trong ấy ấn tượng lấn áp cảnh tượng. Vào tuổi 30, năm 1870, ông cưới bà Camille Doncieux, đã có một đứa con với ông, Jean, cho ông thêm một đứa thứ nhiø, Michel. Bà là người mẫu của ông, hiện diện trong các bức Les promeneurs (Những người đi dạo), Femmes au jardin (Những phụ nữ trong vườn), La femme au l�ombrelle (Người đàn bà cầm dù), La Japonaise (Cô gái Phù tang). Trong thời kỳ chiến tranh Pháp Đức (1870-71) ông sống ở London và làm quen với Paul Durand-Ruel, người sau nầy đã phổ biến nhiều các tranh thuôc loại ấn tượng. Năm 1884, trong một cuộc triển lãm chung ở Paris với Boudin, Degas, Cézanne, Guillaumin, Monet, Berthe Morisot, Pissarro, Renoir và Sisley, một kiệt tác của ông, bức tranh Soleil levant (Mặt trời mọc), được đổi thành Impression, soleil levant (Ấn tượng mặt trời mọc), nhân một bài báo của nhà phê bình mỹ thuật Louis Leroy với một cái tít có tính cách hài hước L'Exposition des Impressionnistes (Cuộc triển lãm các nhà Ấn tượng)! Ngắm tranh, ông hỏi : "Bức nầy biểu thị gì ? Chỉ là một ấn tượng Tôi cũng bị xúc động, chắc là vì ấn tượng bên trong", không dè danh từ ông dùng trở thành thông dụng. Bức tranh nầy đánh dấu một bước ngoặc khác còn quan trọng hơn trong con đường sáng tác chung của ông. Nhiều năm sau, cùng với nhiều tranh khác của các bạn đồng kỹ thuật vẽ, đồng quan niệm mới về thiên nhiên và nghệ thuật, vẽ vì thích thú, vẽ để sáng tác, bức tranh "Ấn tượng mặt trời mọc" khai trương "trường phái ấn tượng".
Trong quan niệm nghệ thuật cho nghệ thuật, cuộc đánh giá một bức tranh rất tương đối, tùy vừa người vẽ vừa người xem, chỉ thích đáng ở một lúc nào đó, trong những điều kiện nào đó. Nghệ thuât nầy đòi hỏi, ngoài một cuộc thực hiện lanh chóng, những kỹ thuật mới lạ về cách sắp đặt những màu sắc với ánh sáng trên tranh vẽ thế nào để thể hiện, như tôi đã được nghe giảng, một "hỗn hợp quang học" trong mắt người xem tranh. Bắt đầu từ nay, Monet dự năm cuộc triển lãm tập hợp từ 1874 đến 1882. Trong thời gian nầy, nhiều kiệt tác của ông ra đời như La Gare Saint-Lazare (Nhà ga Saint-Lazare 1877), Rue Saint-Denis (Đường Saint-Denis), Festivités du 30 Juin 1878 (Hội hè ngày 30 tháng sáu 1878). Tuy nhiên, tranh không được mua nhiều, Monet luôn sống trong thiếu thốn và thay đổi chỗ ở nơi rẻ tiền : Argenteuil, Vétheuil, Poissy, sau cùng Giverny. Bà Camille mất năm 1879, ông cưới bà vợ góa ông chủ nhà, Alice Hoschedé, năm 1892. Từ cuối năm 1880, tranh của ông bắt đầu được nói đến và tương đối, tuy không trở nên giàu, ông có phương tiện hơn để tiếp tục vẻ. Ánh sáng là quan trọng trong tranh của ông nên ông thích vẽ một loạt trong nhiều lúc trên cùng đề tài : Les rochers de Belle-Ile 1886 (Những mõm đá Belle-Ile), Falaises de Belle-Ile 1886 (Những vách đá Belle-Ile); Meules de foin, effet de neige, matin 1890 (Đụn cỏ khô, tác dụng của tuyết, ban mai), Meules de foin, fin de l'été, matin 1891 (Đụn cỏ khô, cuối hè, ban mai), Meules de foin au coucher de soleil 1891 (Đụn cỏ khô vào lúc mặt trời lặn). Ngoài ra ông vẽ cả một loạt tranh có tiếng nhà thờ Rouen trong nắng, cuối chiều,...(18 bức chỉ về mặt tiền) những năm 1893-94.
Monet 1906
Monet 1916
Monet 1906-1916
Monet 1906-1916
Non 40 năm cuối đời (1883-1926), ông rất tận tụy, kiên trì với cái vườn ở Giverny. Ông mất công, tốn của biến hóa cái vườn trồng cây táo thành một vườn hoa muôn sắc muôn màu nhưng không quên trồng rau cho gia đình. Đào, xới, nhổ cỏ, khi cần kêu con tưới cây, một mình ông làm tất cả. Lắm khi làm một mình không nổi, ông bỏ tiền thuê người giúp việc nhưng ông tự chọn, đi mua từng hạt giống cây rồi chỉ định chỗ trồng cây. Ông đặt vào vườn tất cả sức lực và tình yêu. Nhưng công tác còn đồ sộ hơn với cái vuờn nước mười năm sau vườn normand. Nếu trước đây chỉ sửa san vườn cũ, ông phải đào bới để tạo thành cái hồ nước nầy. Luôn nuôi trong trí óc phong cảnh Nhật Bản, một trong công trình đầu tiên là xây dựng nhiều cầu và vẽ cầu, cái cầu chính ngày nay là nơi được khách lại chụp hình nhiều nhất : Le pont japonais 1899 (Cái cầu Nhật Bản). Đề tài thứ nhì thực hiện trong khoảng 250 bức tranh, đủ cở, đủ quan niệm, là những hoa súng đủ màu mà ông cho trồng khắp hồ. Hoa súng thu hút ông quá sức đến nổi trong nhiều bức cảnh vật trong hồ được thu gọn trong một dãy nhỏ, phần còn lại nhường cho hoa ! Ngoài những bức Les nymphéas blancs 1899 (Những hoa súng trắng), Nymphéas 1914, 1917 (Hoa súng),... ông đã tặng cho Nhà nước 14 bức tranh nymphéas khổng lồ được treo một năm sau khi ông mất trong hai phòng hình bầu dục ở Musée de l'Orangerie (Viện Bảo tàng Nhà trú cam) thuộc Jardin des Tuileries (Vườn Lò ngói) tại Paris. Năm 1918, ông viết cho Georges Clémenceau, bạn ông : "Tôi sắp hoàn tất hai bức trang trí mà tôi muốn ký ngày Thắng trận, tôi xin kính tặng Nhà Nước qua trung gian của ông".
"Ấn tượng mặt trời mọc" Monet 1884
Cái cầu Nhật Bản Monet 1899
Năm 1922, ít lâu trước khi giao tặng các bức tranh, Monet bị đau bệnh đục nhân mắt, phải qua một kỳ giải phẩu. Ông rất nản lòng, xé bỏ nhiều bức tranh và vào một lúc hết còn muốn giữ trọn lời hứa. May mà ông không thi hành ý định và cuộc biếu tặng tranh của ông là một hành vi quan trọng chưa từng có của một họa sĩ lúc sinh thời. Cử chỉ nấy còn quý hóa hơn khi biết ông là một họa sĩ nghèo nhưng vô cùng đam mê. Ông bảo may mắn của ông là ngồi vẽ ngay trước cảnh vật, đưa ấn tượng vào nét vẽ một cảnh tượng chỉ hiện ra trong chốc lát, tuy sau nầy trong số những tranh được sắp vào trường phái ấn tuợng ông tiếc đã thấy những bức tranh không có gì là ấn tượng! Sự biến thái của mây, ánh lóng lánh của nước, tất cả những gì luôn biến đổi chiếm đóng đầu óc ông. Năm 1908, ông viết cho Geoffroy : "Những cảnh nước và phản ảnh đã luôn ám ảnh tôi. Mặc dầu quá sức lực của một ông già như tôi, tôi ước mong thành công cho phát tỏa tình cảm của tôi". Sau khi Monet mất (chôn ở nghĩa trang gần nhà thờ trong làng), một dạo vườn được cô vợ của Jean chăm non nhưng sau đó bị bỏ hoang. Michel trao tặng vườn cho Académie des Beaux-Arts (Hàn lâm viện Mỹ thuật). Nhờ tiền giúp của nhiều nhà hảo tâm Mỹ, vườn được trùng tu và năm 1980 mở cửa cho công chúng. Năm 1999, Pháp đã tổ chức lần đầu tiên và có lẽ lần cuối cùng ngay ở Musée de l'Orangerie một cuộc triển lãm 60 bức tranh của Monet, không những lưu trữ ở Pháp mà còn mượn khắp năm châu (Anh, Mỹ, Nhật, Hòa Lan, Do Thái,...) nhân dịp trùng tu viện bảo tàng mà cũng là kỷ niệm 80 năm ngày Monet viết thư tặng những tranh của ông cho Nhà Nước. Đây là một cuộc triển lãm hiếm có, rất quý cho những ai hâm mộ hội họa nói chung, Monet và hoa súng nói riêng. Hiện nay vườn Giverny mở cửa mỗi ngày trừ ngày thứ hai.
Xô thành Mừng xuân 2013
Tết Quý Tỵ