Sau vụ Nhân văn-Giai phẩm (1956) nhà báo Phan Khôi bị “quần chúng văn nghệ”, lớn có nhỏ có, theo lệnh của Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan và Tố Hữu… đánh tơi bời. Phan Khôi lúc đó tuổi đã lớn (sinh năm 1887), uy tín trong làng văn, làng báo khá cao nên muốn xóa bỏ ảnh hưởng ông trong lãnh vực văn học, cần có những cây bút nổi tiếng đồng thời với ông như Thế Lữ và Nguyễn Công Hoan. Những kẻ công kích ông dùng đủ thủ đoạn, nhắm gán ông là đồ đệ Hồ Thích (ngày ấy bị coi là nhà văn Quốc dân đảng phản động), kể cả vu cáo Phan Khôi là chỉ điểm cho thực dân Pháp (như nhà báo lão thành Phùng Bảo Thạch đã làm). Bôi nhọ Phan Khôi và nhóm Nhân văn còn có những trí thức như Hoàng Xuân Nhị (1914-1990) đã vênh mặt khi nghe học trò ca tụng:
Vùng lên đánh dẹp “Nhân văn”
Một đêm tỉnh dậy ông thành vĩ nhân.
Văn thì xa, Bác ở gần
Cuối đời ông lại tần mần dịch thơ.
Bị đả kích tơi tả, về cuối đời, Phan Khôi cô đơn, sống trong một căn gác hẹp ở Hà nội, bị “cách ly” với thế giới văn mặc, tạ thế “không một tiếng vang” vào năm 1959, và được chôn cất sơ sài ở nghĩa trang Mai động (đến nay ngôi mộ đã biến mất khi nghĩa trang bị giải tỏa thành chợ).
Trước 1945, Phan Khôi được nhiều người yêu thích dù cũng có không ít người ghét. Phan Khôi kiến thức rộng, kiêm thông Âu Á, lại tài hoa nên rất tự kiêu. Ông lại bộc trực, thấy điều trái tai gai mắt trên văn đàn là nổi cuộc bút chiến tìm cho ra điều mà ông cho là lẽ phải. Ông đã từng tranh luận với Trần Huy Liệu về lịch sử và Nguyễn Khoa Văn về duy tâm – duy vật, với Trần Trọng Kim liên quan đến Nho giáo, với Lê Dư và Nguyễn Trọng Thuật về Quốc học và đặc biệt công kích Phạm Quỳnh là học phiệt… Ông cũng được coi là “ngự sử văn đàn” vì dùng ngòi bút bắt bẻ những sai lầm, kể cả sai lầm về chính tả, mà người viết quốc văn phạm phải. Có lẽ vì thế mà có lời đồn đại, rằng khi còn làm báo ở Sài gòn trong những năm cuối thập niên 20 sang đầu thập niên 30, ông thường mang theo một cây gậy bịt bạc khi ra ngoài, mà nhà văn Ngô Tất Tố (hồi ấy cũng vào Nam làm báo) cho rằng họ Phan đã dùng nó để tự vệ nếu có kẻ dám tấn công ông.
Tuy nhiên, trước 1945 Phan Khôi đa tài nên mến kẻ có tài, học rộng nên yêu kẻ uyên bác, nhiệt tình với duy tân nên thích kẻ đổi mới. Do đó, ông cũng được lòng nhiều văn hữu tài danh tiền chiến tâm huyết với tự do và canh tân ngưỡng mộ.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã viết về ông với lời xưng tụng như sau:
“Phan Khôi là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trong phái Nho học. Ở một nhà cựu học như ông, người ta đã thấy nhiều cái rất mới, nhiều cái mà đến nhiều người tân học cũng phải cho là ‘mới quá’. Đó thật là một sự chẳng ngờ.”
Còn nhà thơ Nguyễn Vỹ ở Sài gòn trong hồi ký Văn thi sĩ tiền chiến đã viết về cái chết của Phan Khôi ở Hà nội với những hàng thống thiết như sau: “Có những người lúc chết để lại cho toàn thể xã hội đương thời một luyến tiếc buồn bã, đau thương vô hạn, một cái tang não nuột cho tất cả những con tim, nhất là khi những người ấy còn mang xuống tuyền đài một mối hận chung của cả một thế hệ. Phan Khôi 73 tuổi còn hậm hực chiến đấu trên trường văn trận bút, với một nhóm bạn trẻ tài hoa, can đảm để bênh vực lý tưởng Tự do và Công lý. Than ôi, chết mà không thấy thực hiện được lý tưởng ấy, chết mà còn căm hờn, uất hận, ngậm ngùi, thì cái chết của Phan Khôi thật là một tử tiết, một bài học rất đau đớn cho chúng ta, bởi chúng ta tất cả đều là nạn nhân của một thảm kịch bi đát nhất của thời đại.”
Mối cảm thông giữa người tri kỷ và khách tri âm sâu sắc biết bao phải kể trong cuộc hội kiến ngắn ngủi giữa Phan Khôi và Vũ Hoàng Chương.
Phan Khôi có công xướng xuất thơ mới, Vũ Hoàng Chương đã góp phần tài hoa giúp phong trào thơ mới thành công rực rỡ. Phan Khôi kiêm thông văn hóa Đông Tây, gặp Vũ Hoàng Chương tuy là tân học nhưng uyên thâm Nho học. Cả hai đều thờ phụng lý tưởng tự do và đều bất mãn trong hoàn cảnh tự do bị tước đoạt, con người sống lạc lõng trên chính quê hương của mình. Từ đó nhịp cầu thông cảm giữa hai tâm hồn giàu cảm xúc gắn bó. Vũ Hoàng Chương đã ghi lại cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa ông và một nhà báo nổi danh mà trước đó ông chỉ nghe tiếng và mến phục trong một hồi ký:
“Bước xuống ga Hàng Cỏ, tôi về trụ sở Ban Kịch Đông Phương. Ở đấy, tôi được tin các văn hữu Kinh kỳ đang chào đón một số anh em từ miền Trung miền Nam mới ra. Tôi lấy làm tiếc lắm. Vì buổi họp bắt đầu những từ năm giờ chiều. Vậy mà lúc tôi đặt chân vào vỉa hè Hàng Lọng thì ba mươi sáu phố phường đã nhất tề khai đăng.
Ngồi mạn đàm với họa sĩ Hoàng Tích Chù và nữ kịch sĩ Tuyết Khanh, câu chuyện nghệ thuật chưa đi hết một tuần trà, tôi đã thấy lừng lững hiện lên từ cầu thang gác cái mũi khoằm khoằm rất cá biệt của anh bạn họ Nguyễn. Dáng điệu bí mật, anh trịnh trọng tuyên bố: “Xin lỗi toàn thể Ban Kịch, tôi có chút việc riêng, cần phải mượn tạm Vũ quân đây…”.
Cả bọn phá lên cười: “Bất phương! Bất phương! Cứ mượn dài hạn đi cũng được, ông Tuân ạ!”.
Thế là tôi cùng Nguyễn Tuân vội vã ra đường.
“Này! Ông Phan Khôi muốn gặp anh đó! Mà gặp ngay tức khắc kia! Đi chứ?”.
Rồi không đợi tôi trả lời, anh vẫy luôn một chiếc xe kéo, ra lệnh cho “cọp” lồng thẳng xuống bãi Phúc Xá, nơi “ngự trị” của tác giả bài “Nhớ rừng”.
Quả nhiên ông Phan đang có ý trông đợi! Cái phút nhìn mặt cầm tay đã hào hứng phi thường. Lần thứ nhất tôi cùng Phan Khôi hạnh ngộ.
Chiều hôm sau, thấy tôi ngỏ lời cáo biệt, tiên sinh trầm ngâm nửa khắc, rồi bảo: “Được, hai ta sẽ cùng đi”.
Tôi cười thầm tự nhủ: “Gió đã lên!”. Và, bắt chước kiểu Nguyễn “mượn tạm” tôi ở Ban Kịch Đông Phương, tôi cũng chỉnh lại áo khăn, trịnh trọng xin phép Ban Kịch Thế Lữ cho “mượn tạm” ông Tú Khôi ít bữa.
Một già một trẻ, thẳng đường về bến Vị non Côi (Vũ Hoàng Chương quê gốc ở Thành nam, có nhà khá lớn ở Bến thóc, Nam định)… Và, trong căn gác xép ở bờ sông, dài như cái ống, tối như cái “hũ Xuân Thu”, tôi đã tiếp chuyện Phan tiên sinh hai ngày tròn với hai đêm trắng; toàn chuyện văn chương cả, mà quái thay, dứt không ra nữa thôi!
Nguyên do: Buổi liên hoan tại Hà Nội, kịch sĩ Hoàng Cầm được ban tổ chức đề cử ra ngâm mấy bài thơ gọi là để thắt chặt mối duyên văn nghệ Nam Bắc. Tình cờ trong số bốn bài ấy lại có một bài của tôi. Bài ca sông Dịch đó vậy! Thai nghén từ 1940, nó đã bị Ban Kịch Thế Lữ thúc đẩy bằng “đủ mọi phương tiện” để ra chào đời năm 1943, cốt mượn dùng làm khai từ cho vở kịch Kinh Kha của Vi Huyền Đắc. Rồi chuyến này, chính nó đã khiến ông Phan Khôi “thú” tác giả và nóng lòng muốn gặp mặt ngay…
Ấy là ông bảo thế! Chứ riêng phần tác giả, thì phải hiểu rằng người ta “thú” đây là “thú” cái tinh thần hào hiệp của anh chàng giết hụt Tần bạo chúa ở Hàm Dương kia!
Ồ! Hiểu cách nào thì hiểu! Mặc ý tác giả! Điều ấy bất túc luận. Nhưng can hệ là cái cử chỉ kia đã nói lên những gì về “con người của ông Phan Khôi”?
Thiết tưởng nó đã nói lên đủ lắm!
“Còn chưa đủ ư? Thì đây: suốt hai ngày đêm, trong cái dài dằng dặc và cái tối mò mò của “gác ống”, phố Bờ sông, Phan Khôi đã cao đàm hùng biện, hứng khởi thao thao, giọng sắc bén như chém đinh chặt sắt. Ông căm thù bạo lực, ông phản kháng độc tài, ông lên án mọi hình thức dân chủ giả hiệu. Ông có thừa phong độ cốt cách của một nho sĩ ngang tàng bất khuất, cộng thêm vào cái kiến thức sâu rộng của một tay lịch lãm giang hồ. Lắm lúc ông nói như gào như quát, sang sảng lạnh người.
“Không thể được! Sao lại thế được? Văn nghệ phải là văn nghệ! Thiếu tự do, thà ném bút đi! Cầm lấy một mũi nhọn khác!”.
Phải chăng hào khí Kinh Kha đã nhập vào con người thâm trầm quắc thước này? – Không! Tôi tin rằng lòng phẫn nộ của Phan Khôi có thể bốc lên cao hơn và mãnh liệt hơn cái oán khí cầu vồng trắng xuyên mặt trời của kẻ “một đi” trên bến Dịch.
Con người ấy! Buổi hạnh ngộ ấy! Tôi mà quên được ư? Và năm ấy, tôi còn nhớ là năm 1946! Triều Nguyễn chấm dứt vừa đúng mười ba tháng trời.
Sau đó ít lâu… Khói lửa bùng lên từ Hải Phòng, từ Hà Nội… và lan tràn khắp các thị trấn trung châu. Tôi vâng lệnh huyên đường tạm dời về miền duyên hải. Ngày dài đằng đẵng, hết xuân rồi lại thu… Lòng nhớ bè bạn làng văn càng như thiêu như đốt. Bỗng một hôm, tôi nhận được từ Thái Nguyên gửi về không phải một lá thắm buông theo giòng nước biếc, nhưng một lá thư trao theo kiểu chim xanh…
Ngoài phong bì, chỉ có hai dòng: Vũ Hoàng Chương, Nam Định. Và bên trong vẻn vẹn một bài luật thi với chữ ký: Phan Khôi.
Thật không sao kể xiết được những cảm xúc của tôi phút bây giờ! Cảm xúc đến suýt quên rằng thư này chưa chắc tôi đã là người đầu tiên mở ra đọc. Thư rằng:
Ngừng tim lặng óc bặt giòng tình
Tai mắt như không phải của mình
Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc
Nghe trong tiếng ếch một màu xanh
Suối tiên đắm đuối bao cho chán
Khối mộng vờn mơn mãi chẳng thành
Thú ấy từ lâu không có nữa.
Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh.
Ôi! Câu phá đề sao nghẹn ngào u uất đến thế? Cả một giòng máu bị thắt nút đang sôi sục phá phách đòi tự do! Rất sẵn sàng vì tự do mà “lưu huyết”. Câu thừa đề mới lại mỉa mai não ruột đến đâu! Tai mắt còn “không phải của mình”, hỏi ngọn bút cầm ở tay có thể nào “của mình” được nữa chứ?
Nghe thấy màu, trông thấy nhạc, tai mắt loạn rồi ư? Mà không “loạn” sao được? “Không phải của mình” kia mà! Đến như “Suối tiên đắm đuối, khối mộng vờn mơn”, niềm khao khát tự do quả đã tuôn tràn đè trĩu khắp trang giấy.
Ồ! Hiển nhiên lắm rồi! Vì đây là hai câu kết:
Thú ấy từ lâu không có nữa…
Ngủ say thức tỉnh, dậy buồn tênh.
“Thú ấy” là thú nào? Nếu không phải cái thú tự do mà con người văn nghệ quyết tranh đấu cho kỳ được, nắm giữ lấy như tính mạng, hơn cả tính mạng có khi!
Thế mà “từ lâu…”. Trời hỡi! Niềm cảm xúc dâng cao. Tôi nằm dưới một túp lều tranh tại phủ lỵ Xuân Trường, ngâm đi ngâm lại bài thơ của Phan tiên sinh, mà cả một tâm sự đột nhiên được cởi tung mở phắt. Một tiếng xướng phải có muôn tiếng họa! Lẽ nào trong muôn tiếng họa ấy lại thiếu tiếng họa của một kẻ từng vui nhận lấy văn chương làm nghiệp dĩ hay sao?
Cho nên tôi đã họa nguyên vần bài luật thi của Phan tiên sinh và đã gửi đi tức khắc. Tính ông Phan nóng như lửa, nếu giữa khoảng tiếng xướng tiếng họa mà im lặng đến hai mươi bốn giờ, ấy là tôi đã đắc tội với bậc vong niên tri kỷ lắm rồi đó!
Bài họa vần như sau:
Trời vô tâm quá, đất vô tình…
Biết gửi vào đâu cái “chính mình”?
Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng
Màu đen lại ngả xuống màu xanh.
Uổng cho thơ dẫu bày trăm trận
Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành.
Tưởng tới nguồn Đào thôi lại tiếc!
Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh tênh.
Thơ trao đi, lòng còn thắc mắc. Cho đến mãi giờ phút này!
Không biết hồi đó Phan tiên sinh có tiếp nhận được chăng? Mà từ đấy biệt vô âm tín…”
(Trích Ta đã làm chi đời ta)
- Hoàng Yên Lưu