Du Tử Lê.
NGƯỜI
ĐƯỢC MỆNH DANH CÔN ĐỒ VĂN NGHỆ, CAO BỒI TRÍ THỨC HAY NGƯỜI LỮ HÀNH SUỐT ĐỜI
ĐÓNG VAI KẺ LẠ MẶT, KHẬT KHƯỠNG ĐI VÀO CUỘC ĐỜI VỚI NIỀM KIÊU HÃNH TUYỆT ĐỐI
TRƯỚC MỘT ĐỊNH MỆNH BI ĐÁT.
Thế
Phong, chỉ hai tiếng đó khi đọc lên, âm thanh tỏa ra chưa kịp tan loãng, nét
nhăn nhó, khó chịu đã xuất hiện rõ ràng trên gương mặt người đối diện. Vì muốn
hay không, ít hay nhiều, những người làm văn nghệ tại đây cũng đã hơn một lần
chạm mặt hay đọc tác phẩm của người mang tên đó. Thường thì họ phải đối đầu với
cái dáng vẻ lạnh nhạt, cái kiêu căng lố bịch tới “không thể chịu nổi” trong
những cuộc giao tiếp hoặc “lật tẩy” hay bị soi đèn vào tim đen. Mặc dầu căm
thù, hậm hực nhưng họ vẫn muốn lại gần, phải chăng để tìm hiểu kỹ địch thủ
trước khi hạ nhục, đập gẫy đối phương. Hay ở một cõi sâu kín nào của tâm hồn
đôi lúc họ cũng cảm thấy khâm phục? - Nhưng có một điều chắc chắn và hiển nhiên
là khoảng mười năm trở lại đây, hai tiếng Thế Phong được nhắc nhở nhiều nhất.
Năm 1961 trong một cuộc hội thảo ở LE CAIRE, Cù Huy Cận tác giả Lửa Thiêng xưa
cũng đã nhắc tới cái tên này với nhiều ngợi ca, khen tặng. Nói như thế không có
nghĩa là cai tên đó thơm tho, đẹp đẽ gì, trái lại, chung quanh nó không biết
bao nhiêu giai thoại, bao nhiêu điều tiếng xấu xa, ô trọc. Nhưng nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy: càng bị vùi dập,
bôi nhọ bao nhiêu, tên Thế Phong lại càng thấy xuất hiện trên các tác phẩm bấy
nhiêu (phần lớn là trên các tác phẩm in bằng ronéo). Hầu hết mỗi tác phẩm mang
tên này được giới văn nghệ tại đây coi như là một cái gai, một cái gì rất
chướng rất bực bội., Hồi đó, nội việc in sách vằng ronéo, in hình, in tên thật
to cũng đủ làm mất cảm tình biết bao nhiêu người. Cái tôi vốn đã khó thương,
lại còn sơn phết nữa thì làm sao ai chấp nhận cho nổi. Không những chỉ thế mà
thôi, sau này những nhân vật góp mặt trong ĐNVH, một số cũng rập khuôn theo
người chủ trương. Nghĩa là cũng ngông ngông nghêng nghêng, cũng cố tình làm ra
cái vẻ bất cần đời, ra cái vẻ khác người, lấy sự khó chịu của người khác làm
một điều vinh hạnh.
Riêng
tôi ngay hồi chưa quen biết ông, tôi đã cho rằng thái độ của người bất cần đời
là phản ảnh một trạng thái tâm lý bị phản bộ, bị hắt hủi tàn nhẫn. Những kẻ thù
ghét khinh bạc cuộc đời bao nhiêu, chính là kẻ yêu cuộc đới tha thiết đắm say
hơn ai hết. Những kẻ ra mặt lãnh đạm, chê bai, không thừa nhận người
khác, là những kẻ trong thâm tâm chất chứa quá nhiều mặc cảm nhiều tỵ hiềm, vì
họ thấy thua sút, hèn kém hơn kẻ khác, nên cố tạo bộ mặt khinh thị, cố mặt
khoác cho mình một thái độ “mục hạ vô nhân” để che dấu mặc cảm tự ty, bất lực,
họ ẩn náu và thu hình trong cái thế giới không tưởng tự tạo đó. Thế Phong, con
người điển hình cho trường hợp tâm lý dồn nén này? Tiếc thay, những người
làm văn nghệ tại đây lại không ngớt lời chửi rủa Thế Phong. Điều đó tuy có ve
vuốt một phần nào tự ái của họ, nhưng vô tình họ đã tạo một lớp màn bí mật,
huyền hoặc phủ quanh tên ông. Với bản tính tò mò, độc giả hoặc những người chú
tâm tới sinh hoạt văn nghệ phải thắc mắc tự hỏi: “tên đó là ai, làm gì, mặt
ngang mũi dọc ra sao mà ghê gớm láo lếu vậy? Rồi từ những, băn khoăn không được
giải đáp thỏa đáng, người ta đã vẽ trong trí tưởng một hình thù, một khuôn mặt,
một nếp sống, khác nhau tùy theo những giai thoại họ được nghe nhiều hay ít.
Đồng thời họ cũng thích thú, ham mê khi được ai nói những gì liên quan tới
người đó. Thói thường khi có nhiều người muốn nghe, biết về một trường hợp đặc
biệt nào, thì tự nhiên cũng nẩy sinh một số người khác (thuộc loại thích khoác
lác huênh hoang, thích tỏ ra ta đây là kẻ thao tin, biết nhiều, giao thiệp
rôäng, nhất là được chứng tỏ mình rành rẽ tin tức hậu trường văn nghệ, đã không
ngần ngại thêu dệt, bịa đặt thêm bớt nhiều về Thế Phong. Cuộc sống lang
thang khó hiểu của ông lại làm tăng thêm mức độ tin của huyền thoại. Thế Phong
làm gì? Tiền đâu đêå sống, tiền đâu đêå in sách nhiều thế dù cho sách RONÉO!
Những câu hỏi này cũng được đặt ra cho chính những bạn hữu quen biết với ông
nữa. Và tôi khi chưa quen biết ông cũng đã có sẵn cảm tình với ông râát nhiều
khi đọc Lược Sử Văn Nghệ Viêät Nam, môät công trình biên khảo nhận định văn học
công phu, nhưng tới khi đọc báo, nghe anh em nhắc bàn, xì xầm, tôi cũng đâm
ghét và thầm nghĩ nếu có dịp sẽ ‘đập” cho hắn một trận. Tôi còn nhớ trên phụ
trang văn nghệ nhâät báo ngôn luận (hồi còn mồ ma Tổng Ngô) cô (?) Kiều Diễm
Hồng đã viêát vài lời nhắn nhủ những bậc phụ huynh nào có con em thì hãy nhớ
đừng đặt cho nó cái tên Thêá Phong và hãy coi như cái tên đó không có trong từ
ngữ VN. Nguyên do có một cô hay cậu học trò nào đó đăng bài trên phụ trang báo
kia với bút hiệu Thế Phong, Ông viết thư yêu cầu cải chính!
Khoảng
năm sáu năm trước, khi chưa tòng quân, tôi hay la cà vào buổi chiều trên
Bonard, mỗi khi ngồi quán cà phê Kim Sơn, Thế Phong đi qua, là y như có người
chỉ trỏ hay mách bảo nhau nho nhỏ. Từ hồi đó, trong trí nhớ tôi đã in đậm khuôn
dáng ông. Một thân hình cao lớn vạm vỡ, tóc dài như tài tử, da đen xạm, mặt
hình như lúc nào cũng đầy nét nhăn dữ tợn. Nếu không từng xem ảnh trên
sách, cũng như nếu không có người cho biết, chắc tôi không thể ngờ rằng con
người có vẻ thô lổ như vậy lại có thể là một nhà phê bình văn học, một văn, thi
sĩ, kiên cả khảo cứu chính trị… Những thắc mắc, nghi hoặc cứ lởn vởn trong óc
tôi. Không hiểu ông thuộc mẫu người nào? Đâu là khuôn mặt thực? Tôi cố để tâm
dò hỏi. Nhưng như trên tôi đã nói: ông đi, ở, hiện, biến như một cái bóng. Tình
trạng mù mờ kéo dài mãi cho đến khi tôi nhập ngũ. Tuy cuộc sống đã thay
đổi và chính tôi; cũng không còn là tôi ngày nào nữa. Nhưng tôi vẫn theo dõi
sinh hoạt văn nghệ ở đây. Mỗi khi giới văn nghệ xôn xao vì một cuốn sách
nào đó dù chưa biết mặt mũi nó ra sao, tôi cũng có thể đoán được và ít lầm: lại
Thế Phong tác giả.
Tiêu
biểu nhất cho trường hợp này là những cuốn Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh,
MƯỜI NĂM VĂN NGHỆ, NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG và gần đây Thế Phong NHÀ VĂN TÁC
PHẨM CUỘC ĐỜI. Tôi xin đơn cử một trường hợp, khi Thế Phong cho in cuốn Mười
Năm Văn Nghệ, ông xếp của tôi cũng từng viết văn in sách đã phải lên tòa soạn
tạp chí Bách Khoa xem (Thế Phong có gửi biếu một cuốn tại đây). Không phải ông
ấy quí hóa hay hâm mô gì Thế Phong, nhưng ông ấy tìm đọc xem trong đó có nói gì
tới ông không?
*
Điều
mong mỏi, ước ao được tiếp xúc với Thế Phong tiềm tàng trong tôi. Thỉnh thoảng
nó lại khuấy động tâm hồn, mỗi khi tôi nghe một giai thoại, đọc một đoạn văn
một trang báo có nói tới con người, “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” này.
Cho
tới một hôm, tôi cùng TTK xuống nhà in Nguyễn Trọng Gia Đình, điều đình in cuốn
thơ của tôi. Bất ngờ, tôi gặp Thế Phong ở đầu ngõ cùng anh Năm Cao (chủ nhà in
NT), TTK giới thiệu tôi với TP. Vừa bắt tay tôi ông vừa nói: “A! Tác giả mai em
lấy chồng em đừng quên tôi đây. Em đã lấy chồng thì hơi đâu em còn nhớ nữa!”.
Tôi không kịp nói gì, chỉ mỉm cười vì ông nói rất nhanh, rất nhiều và cũng rất
lớn. Ngay từ phút đầu, không khí thân mật, cởi mở đã đến với chúng tôi. Ông kéo
chúng tôi đi “vào đây uống tý cà phê nói chuyện thú hơn”.
Suốt
buổi, ông nói chuyện huyên thuyên, tiếng sang sảng, giọng cười như thủy tinh
vỡ, hầu như ông quên rằng trong quán còn có nhiều người khác nữa. Sau này tôi
mới biết rằng đó là bản tính ông: coi thường tất cả, kể cả cuộc đời, mạng sống,
tình yêu, tiền bạc…
Ông
nói chuyện rất hấp dẫn, lôi cuốn, mặc dù rất lung tung, đang từ chuyện này,
nhảy sang chuyện khác. Phần lớn những chuyện ông kể là những chuyện cười ra
nước mắt, những gì xấu cũng như tốt về ông. Thí dụ ông kể chuyện trong một bữa
tiệc tổ chức tại một biệt thự ở ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Thanh Giản (do Lý
Trung Dung thết nhân dịp lễ giáng sinh 1959). Hồi đó ông và Lê Xuân Khoa đại
diện cho văn hóa Á Châu. Ông ăn mặc rất xuề xòa, lại không ngồi cùng bàn với
LXK, sang bàn Uyên Thao, Lý Đại Nguyên, bàn những người trẻ. Tới lúc vào tiệc,
thay vì được như uống sâm banh Moet Chandon bằng ly đặc biệt như những bàn khác
thì tên bồi ba lại mang ra ly thường (có lẽ tại thấy bàn này không có vẻ gì là
đại khách), ngoài ra tên này còn không mang bánh bích quy “LU” tới. Ông lên
tiếng hỏi tên bồi ba lần, tên này lơ đi, không thèm trả lời. Ông liền bảo cho
gặp chủ nhân tức LTD , lúc đó, ông bồi giật mình, trở vào nói cho Dung biết,
không còn cách nào hơn, LTD liền nhờ Phạm Xuân Thái (Tổng trưởng thông tin 1954
mà Thế Phong làm ủy viên báo chí) ra giàn xếp, nhưng khi PXT ra tới nơi đã
muộn, ông đã dùng sâm banh cổ trắng rửa tay, tiếp theo là Uyên Thao rồi Lý Đại
Nguyên lần lượt rửa theo ông vì lịch sự… Trước sự cởi mởi, giản dị không kiểu
cách, không mầu mè của ông, tôi ngạc nhiên vô cùng.
Với
khuôn mặt đen xám, cùng những vết nhăn nheo chằng chịt trên trán, hai bên má,
lại thêm cái cằm bạnh, tóc húi “cua” dựng ngược, lởm chởm, vẻ dữ tợn lại tăng
thêm nữa. Khi hỏi ra, tôi mới biết lý do cạo tóc “để con nợ khỏi nhận diện”.
Ngày xưa, ở ông đã không có cái dáng vẻ nghệ sĩ, nay lại càng không hơn nữa.
Tôi có cảm tưởng nếu người nào không biết qua sách báo, lần đầu gặp ông, chắc
chắn sẽ có cảm tưởng vừa tiếp xúc với một tên côn đồ, một anh lơ xe, chứ không
thể nghĩ rằng ông là nhà văn, hay một người có tâm hồn nghệ sĩ.
Buổi
sơ ngộ này, ông đã chiếm trọn vẹn cảm tình của tôi. Tôi cũng không ngờ
cảm tình quý mến lại đến với tôi nhanh thế.
Trước
khi về, TTK bảo tôi nên đưa tập thơ của tôi cho ông đề tựa. Ý kiến thật hay.
Nhưng tôi còn ngập ngừng e ngại. Vì tuy giữa tôi và ông đã có được cái không
khí cởi mở thân mật thật đấy, nhưng tôi cũng từng biết, đã hơn một lần, ông vứt
tập thơ của một vị trung úy nhờ ông viết tựa, từ chối đề tựa cho một cuốn sách
của nhà văn kiêm ký giả báo Dân Chủ. Nên tôi sợ ông từ chối lời ngỏ ý của tôi.
Tôi không sợ thơ tôi dở, khiến ông phải từ chối, nhưng tôi sợ ông từ chối để
thỏa mãn bản tính tự kiêu, tự đại, hay để lập thêm một thành tích “hiển hách”.
Như vậy chẳng hóa vô tình tôi biến thành một thứ phương tiện để ông quảng cáo
cái “TÔI” của ông trong những lúc vui với bạn bè. Cuối cùng tôi nghĩ: thì
cứ thử một lần xem sao, biết đâu từ đây, chả nhìn thấy khuôn mặt thực của
họ. Tôi ngỏ ý, ông nhận lời ngay với lời phụ chú: “nếu thơ anh hay, tự nhiên
tôi sẽ viết, còn nếu dở, xin trả lại anh”. Lời nói làm tôi an lòng một phần
nào.
Sáng
hôm sau trở lại nhà in, ông đã có mặt tại đây. Ông lại rủ tôi và anh Năm Cao ra
quán. Chúng tôi nói chuyện với nhau rất nhiều về nhiều vấn đề, từ văn hóa chính
trị, tới xã hội, quân sự, lãnh vực nào ông cũng tỏ ra rất thông thạo, nhất là
khía cạnh quân sự, ông tỏ ra rành rẽ hơn tôi rất nhiều về chiến thuật, cả về
súng ống… Thì ra xưa ông vốn là cựu sĩ quan của quân đội Pháp. Ở đây, ông cũng
cho tôi biết đã đọc xong tập thơ tôi đưa và ngỏ ý khen. Bao nhiêu lo âu, áy náy
về tập thơ đã tan biến.
Tối
hôm đó, tôi lên nhà ông ở ngã tư Bảy Hiền, sát cạnh rừng cao su. Qua chiếc sân
rộng, tôi bước vào nhà, gian ngoài, trên tường treo rất nhiều đối trướng. Qua
chiếc cửa nhỏ, vào gian buồng trong rộng hơn, kê hai cái giường và hai tủ sách
lớn, một bàn viết, trên có một chiếc máy chữ loại nhỏ. Khi thấy tôi, ông reo
to, chạy ra. Có lẽ vì đang đánh máy, nên ông ở trần chỉ mặc mỗi một chiếc quần
tắm bó sát. Trong lúc đó ông không khác gì một võ sĩ (mà sự thực ông cũng đã
từng là võ sĩ hồi còn ở Hà Nội. Tôi được nghe một người bạn: nhạc sĩ Tiên Yên
kể rằng, ngày xưa học cùng một lớp với ông ở trường Thăng Long, suốt ngày ông
chỉ đánh nhau. Hồi đó người ta chưa dùng tiếng cao bồi như bây giờ mà người ta
dùng chữ “Dân Càn” để chỉ chung những tên du đãng, đánh lộn. Có một điều khác
biệt là thời Hà Nội 1950, học sinh du đãng cũng đánh nhau, nhưng đối tượng
chính bao giờ cũng là Tây, nhất là Tây đen rạch mặt).
Chỗ
làm việc của ông, rất gọn gàng, không bừa bãi vô trật tự. Trên tường phía tay
phải, ngay chỗ kê chiếc giường ngủ, tôi đếm được 11 bức hình vừa vẽ vừa chụp đủ
loại: nhìn ngang, nhìn thẳng, nhìn nghiêng, có cả một bức ảnh phóng to, chụp
năm ông 22 tuổi, mặt mũi trông rất hiền lành, ngây ngô. Nhìn bức ảnh đó
người ta khó mà đoán được rằng sau đó không bao lâu, ông đã thành một kẻ đập
phá, ngang ngược nhất trong làng văn nghệ. Với những bức ảnh, tranh la liệt
này, tôi có cảm tưởng ông mắc bệnh tự tôn? Một thứ bệnh mà nếu là kẻ thực tài,
nó sẽ giúp họ tin tưởng mãnh liệt hơn nơi tài năng và là nguồn động lực đưa họ
tới chỗ hăng say trong công việc. Nhưng nếu, nó chỉ phản ảnh một tâm hồn yếu
đuối, bất tài, dựa vào đó để tự lừa dối mình, đánh lừa kẻ khác, thì ngược lại
sẽ là một điều hết sức nguy hiểm. Bởi lâu dần, họ không còn nhìn thấy con người
thật của họ nữa, ảo ảnh đã che mờ lý trí soi sáng chân dung đích thực.
Ông
ngồi vừa nói chuyện với tôi vừa đánh máy, cuốn Thế Phong nhà văn tác phẩm cuộc
đời. Nghĩ tới đâu ông đánh máy tới đó, không viết trước. Bên cạnh chiếc máy chữ
là một ly cà phê to (loại ly sành) cùng hai bao bastos xanh “goũt” đặc biệt của
ông. Ông uống cà phê như uống nước trà, và hút thuốc liên miên, ngay cả lúc
đánh máy. Ngồi một lát, ông rủ tôi ra quán cà phê.
Sau
một thời gian giao tiếp, tôi cũng không biết ông lấy tiền đâu để sống. Vì ngoài
việc viết sách, ông không hề làm gì khác, cũng không hề viết báo. Chỉ biết ông
về sống tại đây; nhà một người anh họ. Điều lạ hơn nữa là không bao giờ thấy
ông than phiền về vấn đề tiền nong, hay kêu ca về những đau khổ mà cuộc đời đã
dành cho ông. Không phải đời sống ông đầy đủ, không phải cuộc đời đã hậu đãi
ông. Dĩ nhiên là thế! Hay ông là con người vô tư, đang sống trong hạnh phúc
trong tình yêu tràn đầy? Tôi biết chắc cũng không phải. Thơ văn và thái độ của
ông đã chứng tỏ hùng hồn điều đó. Tất cả những chuyện ông nói với tôi, tuy có
chua chát, đắng cay, nhưng ông kể lại với một giọng hài hước dí dỏm, không một
chút hậm hực, không một chút oán hờn than trách. Bất cứ ở đâu, chỗ nào ông cũng
chỉ có một vẻ mặt: tươi cười, vui vẻ, một giọng nói vang động, vỡ nát. Nhưng
tôi không tin tiếng cười, giọng nói đó đã phản ảnh mặt thực của tâm hồn ông.
Ở
quán về, đêm đã khuya lắm, ông còn cố giữ tôi lại. Chúng tôi ra ngồi một chiếc
ghế băng gỗ ngoài sân, dưới dàn hoa hồng giấy. Chiếc transistor để bên cạnh,
phát ra những âm thanh kích động của một bản nhạc ngoại quốc… Chúng tôi
im lặng hút thuốc. Mỗi khi đốm lửa xòe lên, lại một lần soi sáng khuôn mặt nhăn
nheo, dữ tợn, lì lợm của ông. Nhưng không như mọi lần, ở đây mỗi khi liếc nhìn,
tôi thấy ẩn sau những nét nhăn, có vẻ hung hãn kia, có một cái gì rất mỏng
manh, rất khó nhận nhưng cảm được. Một nỗi buồn, một vẻ ưu tư trầm kín; cái cảm
giác mơ hồ về một đớn đau, một khoắc khoải quằn quại, một chán chường, khốn
nhục… Tôi không biết trong thâm tâm, lúc đó ông nghĩ gì? Hay không nghĩ gì? Tôi
bỗng thấy buồn…. Bỗng thấy một niềm thương tiếc không đâu dâng lên rạt rào
trong hồn tôi. Xa xa tiếng súng đại bác từ miệt Phú Lâm vọng tới. Ông thở dài
nói như một mính: “tôi không còn gia đình thân thích nào ở đây cả. Trong đời
tôi, tôi chỉ quý mến và nghe lời một người, đó là mẹ tôi. Nhưng mẹ tôi không có
ở đây, bố tôi cũng vậy. Tôi không anh em ruột thịt, một thân, một mình, chả
cần! Sống theo những gì mà mình muốn, làm những cái gì mà mình thích làm. Vợ con
chưa có, lỡ có chết có tai tiếng, điều gì, cũng chỉ một mình mình gánh chịu!”
Dừng một lát, ông tiếp, giọng thật nhẹ, xa xôi, khác hẳn ngày thường, khiến tôi
có cảm tưởng như tiếng nói đó không phải của ông mà của một ai xa lạ:
“tôi không muốn để ai biết tôi buồn, nỗi buồn của tôi chỉ có tôi biết mà thôi,
tôi cũng không muốn nhận hay mang ơn ai cả”.
Đốm
lửa lóe lên soi sáng khuôn mặt u uẩn của ông một lần chót, rồi bị bắn vút vào
khoảng tối đen. Tôi cũng rụt nốt mẩu thuốc. Hành động bắt chước, không mang
theo ý nghĩa nào… Còn mười lăm phút nữa đến giờ giới nghiêm. Tôi đứng dậy ra
về, sau khi nắm chặt bàn tay lạnh lẽo của ông (hay của tôi?) tiếng động cơ
chiếc solex cũ, hơi đêm buốt giá làm tôi tỉnh táo. Nhưng nỗi buồn vơ vẩn lại
lớn dần, lớn mãi, lấp đầy khoảng trống mênh mông trong lòng tôi.
Từ
đó, tôi tìm đến với Thế Phong nhiều hơn, và chúng tôi cùng lang thang nhiều
hơn. Mỗi lần giao tiếp, ông lại làm tôi thêm một lần ngạc nhiên vì tất cả những
ức đoán ban đầu, cũng như những huyền thoại tôi được nghe về ông mất dần nội ý.
Tôi bắt đầu nghĩ về ông với tất cả những mâu thuẫn, tương tranh. Càng muốn vào
sâu tâm hồn ông, tôi càng cảm thấy bối rối, mù mịt, bất lực. Tôi không còn phân
biệt nổi đâu là hư, đâu là thực nữa. Nếu sự thực ông là con người bất cần đời,
coi thương tất cả, thì tại sao ông lại có thể hăng say tới độ cuồng nhiệt, đam
mê tới độ khủng khiếp trong một ý thức sáng suốt về những hoạt động nghệ thuật
văn chương. Ít nhất ông cũng phải có một niềm tin tưởng khẩn thiết về một giá
trị nào đó, ông mới có thể mê man, hiến dâng như vậy.
Một
hôm, một người bạn đã từng chung sống với ông trong những ngày đói rách nhất,
những ngày chạy vạy từng đồng bánh mì, hay gói xôi, uống nước lã cầm hơi và
trốn nợ, đã nói với tôi: “bọn chúng tôi đã bất công rất nhiều với nó (chỉ TP),
nó là thằng nghĩ thế nào làm thế đó, không ác tâm, không ẩn ý, tại sao khi đến
với nhau cứ phải đeo mặt nạ rồi đòi người ta phải thành thật với mình!”
Tôi
băn khoăn rất nhiều về câu nói hàm xúc ý nghĩa này. Và giữa lúc bị dày vò, day
dứt, tôi nảy sinh khao khát tìm kiếm đối diện với gương mặt tâm hồn ông.
*
TIỂU
SỬ :
Thế
Phong tên thật là Đỗ Mạnh Tường, sinh ngày 10-7-1932 tại Nghĩa Lộ, Yên Bái. Ông
là đứa con cầu tự duy nhất còn sống sót trong số 5 anh em. Thân sinh ông
là một nhà giáo, tham gia VNQDĐ, chống Pháp và Việt Minh, nên bị đày lên vùng
thượng du. Bị bất đắc chí vì công đã không thành, danh lại chẳng toại, thân phụ
ông sinh ra nghiện hút, bê tha. Tôi thấy hầu hết những người mắc bệnh nghiện thuốc
phiệân thường rất ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình và chỉ mình mà thôi, ngoài ra không
kể gì hết, dù cho vợ con cha mẹ. Thân phụ ông cũng thế. Nên mặc dù là con cầu
tự, nhưng ngay từ hồi bé, ông cũng chỉ nhận được một tình thương yêu nồng nàn
của mẹ. Còn cha ông, không những không thương mà lộ tỏ thái độ ghét bỏ và
đánh đập hành hạ ông.
Một
kỷ niệm sớm hằn sâu trong trí ông hồi 11 tuổi. Tại một nông trại làng Bửu
(thuộc Yên Bái) cha ông sai ông đi mua thuốc phiện. Muốn đến nơi bán thuốc
phiện phải lội qua một con suối, mà con suối đó đang ở vào thời kỳ nước lũ, nó
chảy xiết vô cùng. Lần đi, trót lọt. Nhưng lần về, phần ngựa đã yếu sức, phần
nước lại chảy xiết hơn, thác nước đã cuốn trôi mất ngựa và ông chới với giữa
giòng. May sao ông bám được một rễ cây lềnh bềnh trên giòng nước, trong khi đó
bên kia bờ cha mẹ ông đang đứng chờ. Tới lúc tìm cách lội về được bên bờ, cha
ông không nói một lời an ủi thăm hỏi, cầm thuốc đi thẳng về nhà, chỉ có mẹ ông
ôm lấy con mà khóc nức nở…
Mối
oán giận người cha nghiện ngập này bắt đầu in hằn trong tâm trí ông. Sống giữa
thiên nhiên, giữa núi rừng, suối thác, giữa cái rét thâm da, tím thịt của mùa
lạnh trời Việt Bắc, ông sớm có một tinh thần chịu đựng, dẻo dai, cam đảm. Một
trí hướng thích phiêu lưu mạo hiểm, tự lập, cộng thêm bản chất vốn hiếu động đã
ảnh hưởng rất lớn tới thái độ, sự nghiệp văn chương của ông. Năm 11 tuổi dục
tình nơi ông bộc phát.
Người
con gái đầu tiên mà ông mê đắm là một cô bé cùng tuổi, học cùng trường, khi
chiến tranh Pháp - Việt ngày càng tới độ khốc liệt, gia đình ông phải tạm lánh
nạn ở một làng khác, tương đối bình yên hơn. Tại đây, ông gặp một cô gái Thái
(đồng bào thiểu số tại miền thượng du BV) vợ một người lính, và đem lòng yêu,
mê. Vì chuyện này, một lần nữa ông lại suýt chết, người lính kia dọa bắn ông.
Mẹ ông hay biết, sợ quá, vội vàng gửu ông ra Hà Nội.
Thế
là chưa quá 12 tuổi, ông đã xa gia đình, xa người mẹ mà ông yêu kính. Ông không
ngờ lần đầu tiên và cũng là vĩnh biệt. Sống giữa Hà Nội, một đô thị phù hoa,
lại thêm không phải lo nghĩ gì về mặt tài chính, ông cho rằng đó là khoảng thời
gian đẹp nhất của đời niên thiếu. Những chuỗi ngày huy hoàng, gấm nhung, kéo
dài tới năm 1952 thì ông mất liên lạc với gia đình (quân Pháp thất trận hoàn
toàn tại Nghĩa Lộ). Sau này, năm 1957, tại Saigon, ông được một người quen biết
xưa với gia đình cho biết: mẹ ông đã chết ngay khi Việt Minh chiếm được Nghĩa
Lộ.
Năm
đó ông vừa được 20 tuổi. Đang từ một học sinh ngày hai buổi rong chơi, trai
gái, không biết lo nghĩ mưu sinh là gì, nay phải lăn xả vào đời, tranh
tìm miếng sống. Nhờ hoàn cảnh xưa đã huấn luyện cho ông một sức chịu đựng, một
tinh thần cam đảm, tự lập, nên ông vẫn sống được tại Hà Nội mặc dù lây lất đói
khát. Sự mất liên lạc với gia đình đã biến đổi hẳn tâm tính con người ông. Sự
tuyệt vọng, linh cảm một ngày mai đen tối, nỗi buồn ghê lạnh của một ý thức mất
hết, ông bắt đầu có ý nghĩ mượn thơ văn giải tỏa phần nào nỗi cô đơn hoang
mang. Bài đầu tiên được đăng trên báo là truyện ngắn “đời học sinh” nhật báo
Tia Sáng tháng 11 năm 1952 với biệt hiệu TƯƠNG HUYỀN.
Sau
gần hai năm trường, ngày lang thang ngoài phố, đêm tìm về ngủ dưới mái hiên nhà
HÁT LỚN Hà Nội. Nơi đây, đêm đêm tập trung đủ mọi hạng từ ăn cắp, đánh giầy,
đấm thuê, chém mướn v.v… Nếu đêm nào về chậm, sẽ không còn chỗ và phải ngủ
ngoài trời hay vườn hoa. Từ đây ông bắt đầu làm quen với văn nghệ. Ông viết bài
gửi cho các tờ Thân Dân, Dân Chủ. Tuy mỗi khi bài được chọn đăng, mấy ông chủ
báo cũng có trả tiền nhuận bút, nhưng chả bao nhiêu vì bài của một tên vô danh
tiểu tốt… Trong khi tất cả bạn bè, thân thuộc hầu như đều xa lánh và lẩn tránh
ông như lẩn tránh một tên hủi, chỉ có một người bạn đã tận tình giúp đỡ ông đó
là ông Nguyễn Thế Hiển.
Qua
bao nhiêu cố gắng, chịu đựng, ông vẫn không thoát khỏi cái cảnh màn trời chiếu
đất, đói rách. Thêm vào đó, sự hắt hủi xa lánh của mọi người, ông nghĩ không
còn cách nào hơn là bỏ đi tìm cách khách.
Ông
vào Nam trước khi có hiệp định Genève.
Tôi
nhận thấy, thường khi đời sống của một người mà giá trị làm người bị chà đạp
phũ phàng thì người đó hoặc sẽ buông trôi và chìm sâu trong cơn lốc của định
mệnh bi thảm, hoặc, nếu vượt qua được, họ sẽ trở nên kiêu căng, liều lĩnh, dám
làm những chuyện mà một người bình thường không dám làm hoặc không dám nghĩ
tới.
Theo
tôi có lẽ Thế Phong đã rơi vào trường hợp thứ hai. Dĩ vãng với hai lần suýt
chết. Với thiên nhiên, giữa núi rường Việt Bắc. Tất cả đã sớm nung nấu cho ông
một lòng tự tin, kiêu hãnh, ngạo mạn, cái vẻ hiên ngang thách đố thiên nhiên,
định mệnh. Thêm một tâm hồn náo nức chân trời xa rộng… Mộng mạo hiểm,
phiêu lưu bấy lâu tiềm tàng trong mạch máu, nay lại được dịp bộc phát mãnh liệt
với niềm khát khao tìm bắt cả một tương lai huy hoàng sáng rực. Cuộc giang hồ
từ Bắc vào Nam đã khơi hứng cho ông viết cuốn “nửa đường đi xuống” (ĐNVHXB
1961).
Những
tưởng miền đất phù sa mầu mỡ như miền Nam, sẽ chịu cho người lãng tử bất đắc
dĩ, tứ cố vô thân, nương náu; ai ngờ định mệnh vẫn chưa chịu buông tha con
người bất hạnh đó. Ở Saigon ông lại tiếp nối cuộc sống tối tăm, khốn khổ, nhục
nhã như xưa và có phần còn hơn thế nữa! Những ngày đầu tiên tại đây ông tìm về
Xóm Chùa tá túc. Một khu đặc biệt tập trung những người thất cơ lỡ vận,
chờ thời, đợi thế, và những người thuộc giai cấp thấp hèn nhất của cái xã hội
công bình bác ái, như xã hội Việt Nam!
Từ
đây, những trang sách của cuốn biên khảo phê bình văn học lược sử văn nghệ Việt
Nam (4 cuốn), mà theo tôi mang một giá trị đáng ghi nhớ hơn cả trong sự nghiệp
văn nghệ của ông.
Cũng
bắt đầu từ đây, hoàn cảnh xô đẩy, dồn ép, ông đi đến chỗ không thể dừng: một
tên bất nhân, quỵt tiền cơm trọ, trốn nợ tiền cà phê thuốc lá trong suốt sáu
tháng liền. Cũng từ đấy, những mối tình lăng nhăng nảy sinh. Kết quả cụ thể
nhưng đau đớn: một đứa con rơi, với một người đàn bà cùng xóm có chồng đi làm
xa.
Thói
thường, sự đói rách, nhục nhã là một mảnh đất mầu mỡ để tài năng bộc phát trọn
vẹn. Hoàn cảnh xã hội đã tạo nên một Thế Phong với gần 40 tác phẩm đủ loại.
Thời
gian ông sáng tác mạnh nhất có lẽ là thời gian ông yêu LB một cây bút nữ lưu.
Sau nữa, CMN một người làm thơ nhanh như ống nước. Sự có mặt của hai
người này đã khiến ông viết điên cuồng. Bằng chứng cụ thể là vì yêu LB mà ông
cố gắng hoàn thành bộ lược sử văn nghệ VN. Cũng như nhờ mối tình thiết tha đắm
đuối của CMN mà ông thêm vững tin nơi tài năng. Ông cho rằng CMN là người hiểu
ông nhiều hơn ai hết và cũng cùng gánh chịu với ông rất nhiều điều tiếng xấu
xa, nhiều nhục nhã, dè bỉu của thiên hạ, của cả gia đình nàng nữa.
Sở
dĩ tôi chỉ nói về hai người đàn bà này, mà không nhắc tới những người khác, mặc
dù họ có tham dự, có chi phối ít nhiều cuộc sống ông, vì ảnh hình họ chỉ là một
thứ ảnh hình mờ nhạt, thoảng qua. Hơn nữa tôi khó có thể kể hết, vì họ quá đông
đảo, đủ mọi thành phần, mọi giai cấp: lao động, me tây, gái nhẩy, đĩ điếm và cả
học sinh… Với ông hầu như tất cả đều nhẹ, rất nhẹ, kể cả tình yêu, ông có
tính thích cái gì thì làm cái đó, càng khó càng thích, nhưng phải làm cho bằng
được, xong rồi lại chán và rất dễ quên. Kể cả chuyện hy sinh tính mạng, phẩm
giá, ông cũng không ngần ngại, nếu đó là một phương tiện tốt cho mục đích tối
hậu là phục vụ văn học nghệ thuật.
Về
những hành động ngang tàng ngỗ ngược, khinh mạn kiêu căng ở trên, tôi đã có dịp
nói tới với ý nghi ngờ, cho rằng đó chỉ là những hành vi giả tạo, để che dấu
cái thực chất yếu đuối bất mãn, bi quan bất lực. Nhưng sau này, qua những
lần đi chơi với ông, tôi mới thấy rằng đó là đặc tính cố hữu, phát xuất từ tâm
hồn. Ông đã từng nói với tôi: “tôi biết con đường tôi đi, thái độ tôi chọn sẽ
đưa đến cho tôi rất nhiều kẻ thù, rất nhiều điều tiếng, nhưng tôi nghĩ; thà có
nhiều kẻ thù còn hơn tự dối gạt lương tâm mình. Nếu cảm thấy rằng không thể
chịu nổi búa rìu dư luận, thì tốt nhất là đừng cầm bút, đừng làm văn nghệ, hãy
bỏ đi buôn, làm công chức để được nhiều người yêu thích. Riêng tôi khi nào cảm
thấy không còn đủ cam đảm để sống thực với cảm nghĩ, với ý thức của tôi, tôi sẽ
thôi làm văn nghệ”.
Cũng
vì thế, cho nên bước khởi đầu, ông đã gặp rất nhiều gian nan nhục nhã. Không
những nhục nhã, đau xót về vật chất mà còn ở cả lãnh vực tinh thần. Chung quanh
ông, những người không ưa, những người ghen ghét đã không tiếc lời dè bỉu, họ
bịa đặt thêu dệt nhiều giai thoại, với mục đích làm sao loại trừ ông khỏi hàng
ngũ những người cầm bút. Dĩ nhiên không phải đó là thái độ của hết thảy những
người cầm bút tại đây, chỉ có những tên hoạt đầu, những tên bồi bút, bán rẻ
lương tâm, quên hẳn thiên chức cầm bút của mình, mới hằn học, tỵ hiềm như vậy
mà thôi. Thêm nữa, ông còn bị một số bạn bè bội phản một cách đê hèn, trắng
trợn.
Nhưng,
càng nhục nhã, càng khốn khổ bao nhiêu ông càng hăng hái, bất chấp tất cả, vượt
lên trên để sáng tác nhiều hơn nữa, càng thẳng thắn phê bình, vạch mặt chỉ tên,
phanh phui mọi bỉ ổi thối tha, điếm nhục của bọn đánh đĩ tâm hồn, bán rẻ lương
tâm.
Dưới
ngòi bút vũ bão, ngang bướng của Thế Phong, bao nhiêu tệ đoan, bao nhiêu bẩn
thỉu bất công của xã hội, của chế độ, của cả những người đang được xung tụng là
thần tượng v.v… đều bị phơi trần trên giấy trắng mực đen. Cảm kích trước thái
độ cương trực của ông, một số anh em nghệ sĩ khác đã quy tụ lại, hợp tác với
ông thành lập nhóm Đại Nam Văn Hiến, như Uyên Thao (tác giả bộ Lược khảo về thơ
(3 cuốn), Nhị Thu (tác giả “mây Hà Nội” Bùi Khải Nguyên … (tác giả “Thiết Tha”,
cũng chỉ vì nhất định in tập thơ này mà nhà thơ họ Bùi Nguyên trung úy, đang
tùng sự tại ủy hội quốc tế đã bị thuyên chuyển lên cao nguyên, sau khi công an
mời ra cảnh sát cuộc lấy khẩu cung).
Mặc
dù dưới chế mật vụ như chế độ Ngô Đình Diệm, ông vẫn cố gắng lần lượt cho in
bằng RONÉO (không giấy phép) những tác phẩm nội dung lên án chế độ độc tài áp
bức, bất công, thối nát của chính quyền. Hành động gan liều này đã làm điên
đầu, gây lo sợ cho những vị giám đốc thông tin thời đó như Trần Văn Thọ, Phan
Văn Tạo là những vị giám đốc, tổng lý bộ thông tin. Các ông sợ nếu cứ để Thế
Phong tiếp tục in tác phẩm chửi chế độ “ấm no hạnh phúc” của các ông, có ngày
các ông sẽ mất ghế, sẽ bể nồi cơm không chừng. Hơn nữa, rất có thể các ông sẽ
bị đi ở “tì” vì tội để cho một tên văn nghệ “làm loạn”. Các vị này, ngay cả ông
bộ trưởng Hiếu cũng tìm đủ mọi cách khuyên dụ Thế Phong hãy bỏ lối in đó đi,
nếu cần in tác phẩm, cứ đưa cho ông ta, ông ta sẽ bảo nhà in Quốc Gia in cho!
Nhưng Thế Phong có dại gì nghe theo những lời dụ dỗ ngon ngọt đó! Thấy chiến
thuật mềm dẻo không có kết quả, các vị quay ra dùng quyền hành đe dọa, lấy áp
lực hầu mong ông sẽ hoảng sợ mà bỏ dở công việc, nhưng Thế phong vẫn thản
nhiên, lặng lẽ, âm thầm làm công việc của mình. Tôi xin trích dẫn một thí dụ để
độc giả thấy rõ thêm về trường hợp in RONÉO không giấy phép. Tháng 4 năm 59,
ông cho in cuốn “Nhà văn tiền chiến”, thấy sách được tiếp đón nồng nhiệt (mặc
dầu in RONÉO), ông liền cho in cuốn tự truyện “nửa đường đi xuống”, nội dung
lên án gắt gao chế độ độc tài đầy thối nát nhơ bẩn, biết chắc rằng nếu có xin
phép cũng chẳng ai chịu cấp cho, nên ông cứ cho in và lấy giấy phép của cuốn
“hình ảnh một cái đám cưới” số 300 TXB thời nhà văn phóng sự Trọng Lang phụ
trách kiểm duyệt. Thêm nữa, khi cho xuất bản cuốn “nếu anh có em làm vợ” (nói
về tình yêu của ông với CMN không những ông không xin phép mà cũng không ghi số
kiểm duyệt ma nữa.
Nhờ
tựa đề hấp dẫn nên sách đã bán khá chạy và dĩ nhiên các tiệm sách vẫn nhận bày
bán. Như bị tát vào mặt, bộ thông tin không còn cách nào khác là mời ông đến bộ
để đối chấp và nếu ông tới, có thể sẽ bị áp tải đi luôn.
Nhưng
Thế Phong nhất định không đến, mặc dù công văn gửi đi ba lần, đều đề Thượng
Khẩn (chúng tôi xin nói thêm để độc giả rõ: thời đó, muốn được cấp một tấm giấy
phép in sách phải trải qua đủ ba cơ quan: Văn hóa vụ, hội đồng kiểm duyệt, nha
CTTL).
Dưới
đây, tôi xin chép lại nguyên văn một trong hai công văn mà ông Phan Văn Tạo
tổng giám đốc thông tin xưa và cũng là tác giả tập truyện ngắn “cái bong bóng
lợn”.
Saigon,
ngày 25 tháng 7 năm 1963
Số 4044 CDV/TT/HĐKD
Tổng giám đốc thông tin
Số 4044 CDV/TT/HĐKD
Tổng giám đốc thông tin
Kính
gởi
Ông
giám đốc Đại nam văn hiến xuất bản cục Phú nhuận
Thưa
ông giám đốc,
Quý
ông đã có nhã ý gởi tặng tôi bản dịch cuốn LA CRAVACHE của GHEORGHIU do Đại Nam
văn hiến phát hành, tôi xin kính gửi lời chân thành cảm tạ. Song le, trên
phương diện kiểm duyệt, nha tôi nhận thấy Đại nam văn hiến xuất bản cục đã hiển
nhiên vi phạm luật lệ hiện hành vì đã không nạp duyệt tác phẩm trước khi xuất
bản.
Ông
tổng giám đốc cũng đã thừa rõ những phiền phức có thể xảy ra với hành vi phạm
pháp trên đây, nhất là ngay khi nhận được lá thư gửi “Anh chị em làm nghệ thuật
và độc giả” nha tôi đã tùng tại công văn số 3491/TT/HĐKD ngày 2 tháng này lưu ý
và yêu cầu ông giám đốc gửi duyệt những tác phẩm mà ĐN VH XBC định cho ra mắt
độc giả? Vì lẽ đó và mặc dù tôi rất quý trọng các văn phẩm, tôi không thể
nào với tư cách tổng giám đốc thông tin nhận gởi tặng một bản dịch không kiểm
duyệt dù là bản này in RONÉO. Tôi xin phép được gửi lại quý cục cuốn sách trên.
Tôi
cũng xin dành lại quyền hành động theo các điều 6 và 7 nghị định số 275-PTT/TTK
5-4-1954 ấn định thể thức kiểm duyệt các ấn loát phẩm xuất bản trong nước.
Vài
lời thành thực mong ông giám đốc thông cảm và xin trân trọng kính chào ông giám
đốc.
Kính
thư Phan Văn Tạo
(chữ ký và con dấu) (1)
(1) Trích trong TP Nhà văn Tác phẩm cuộc đời, trang 99 – ĐNVHXB.
(chữ ký và con dấu) (1)
(1) Trích trong TP Nhà văn Tác phẩm cuộc đời, trang 99 – ĐNVHXB.
Đọc
kỹ công văn trên, hẳn độc giả đã thấy rõ cái nguy hiểm, cũng như sự liều
lĩnh bất cần của Thế Phong nó nói lên được phần nào thực chất tâm hồn ông.
Tới
đây tôi xin nói về nguyên nhân khơi nguồn loại sách RONÉO mà Thế Phong là người
đầu tiên thực hiện (sau này cũng có rất nhiều người bắt chước, mặc dù trước kia
họ đã từng lên tiếng chỉ trích, chê bai như thiếu tá thi sĩ Hoàng Trinh với tập
“Tiếng hát TỰ DO” rồi Minh Đức Hoài Trinh… gần đây có Nguyễn Văn Trung, giáo
sư, với tập báo Hành Trình).
Hồi
đó, Uyên Thao, người bạn thân nhất của Thế Phong, nói với ông rằng: “tình trạng
bế tác này, nếu không tìm ra một lối thoát thích hợp với hoàn cảnh (chính trị
cũng như kinh tế, tài chính), bản thảo của mình chắc sẽ thất lạc mất. Hay là
mình cho quay RONÉO”. Như bắt được vàng, Thế Phong thực hiện ngay. Hôm sau,
Uyên Thao đi mượn ở đâu về được một cái máy chữ cũ tới độ khó có thể khảo trợ
nổi. Nhưng ông cũng đem đi sửa chữa qua loa, rồi không nói không rằng gì cả,
xoay trần ra đánh máy suốt ngày tại nhà mẹ nuôi của Uyên Thao. Lúc đó khoảng
đầu năm 1959, với tên chọn đầu tiên là “loại sách đại nam văn hiến”. Dần dà,
ông được một số anh em cùng chí hướng góp sức mới đổi thành ĐNVHXBC, danh hiệu
trên còn được dùng tới bây giờ và tôi chắc cũng không còn xa lạ gì với bạn đọc.
Tuy
phải chịu đựng khốn khó trăm bề, nhưng đền bù lại ông được giới thanh niên ưa
thích. Với ông, đây là một khích lệ lớn lao. Ông kể truyện, có một sinh viên
văn khoa đã chặn ông lại ở giữa phố Bonard hỏi ông: “tôi nghe nói ông phải nhịn
đói thường xuyên, vậy bây giờ ông đã ăn cơm chưa? Nếu chưa, tôi có thể giúp ông
một bữa được”. Những điều trên, đã cho tôi thấy rõ nhận xét sai lầm của tôi về
hành vi, tư cách của Thế Phong. Nó không phải là những gì giả tạo, bày đặt cố
tình. Nó chính là khuôn mặt tâm hồn ông, không son vẽ, không hóa trang, ngụy
tạo. Ở ông, trong cuộc sống cũng như trong tác phẩm, có sự đồng thể? Trường hợp
Thế Phong có người cho rằng rất gần gũi với trường hợp một Cao Chu Thần… (theo
tôi thì sự thực không hẳn thế, ở một Cao Bá Quát là một tâm hồn muốn vươn
thoát, bay trên cuộc đời và không bao giờ muốn nhìn xuống, muốn quay về nhân
gian. Cái khinh mạn của cuồng sĩ tài danh họ Cao là cái ngạo nghễ ngất ngưởng
của một người biết mình có tài mà không được đời trọng dụng, không được đời
biết đến dù đã từng bon chen trên con đường quan hoạn, và số mệnh vẫn là cái số
mệnh bi đát. Cho nên họ Cao sinh ra yếm thế, mượn mộng, mượn rượu để quên, để
chửi cuộc đời, chửi xã hội tham quan ô lại). Sự so sánh này quá đáng - tuy
nhiên, nó cũng nói lên một phần nào khía cạnh nổi loạn, đập phá, tiềm ẩn trong
tâm thức ông (tôi sẽ nói rõ hơn trong phần nhận định tác phẩm).
Với
những ghi nhận trên, tôi thấy đã tạm đủ độc giả có khuôn mặt bằng những nét
phác, nhưng là những nét chính của khuôn mặt đời-Thế Phong.
Để
kết thúc, phần này tôi xin trích lại một đoạn văn trong một bài đả kích Thế
Phong, đăng trên Văn Hữu (1) “hắn chụp cả ảnh, thuê sao ra để biếu không sợ xẩy
ra chuyện gì như bị đưa vào trại tế bần cải hóa chẳng hạn, thì người đời sẽ
khỏi quên mất hình ảnh của một thiên tài”.
(Văn
Hữu số 6 năm 1963)
(1)
Văn Hữu là tạp chí của cơ quan Văn hóa vụ xưa, bài của Hoàng Trọng Miên, tác
giả cuốn VĂN HÓA TOÀN THƯ, đã bị một số anh em văn nghệ lật tẩy là ăn cắp
nguyên văn và từng đoạn trong Lược khảo về THẦN THOẠI của Nguyễn Đồng Chi xuất
bản tại Hà Nội. Trong số những người đả kích có cả Thế Phong với bút hiệu Đường Bá
Bổn.
THƠ
THẾ PHONG :
“Trong
giới văn học và quần chúng độc giả hôm nay thường xem Thế Phong như một nhà phê
bình văn học, một tiểu thuyết gia có khuynh hướng xã hội cấp tiến. Sự thực Thế
Phong là một nhà thơ. Thơ của ông mới đủ tư cách và bảo đảm cho ông một ngôi vị
xứng đáng trong văn đàn dân tộc”
(Trích
trong XI nhà thơ tự do của Cao Đan Hổ trang 26)
Tôi
đồng ý với tác giả họ Cao, khi ông chủ trương thẩm xét tiếng thơ Thế Phong để
định vị, xếp chiếu hay chụp vẽ chân dung linh hồn nhà thơ này. Nhưng với lập
luận viện dẫn trên, tôi thấy thiếu phần xác đáng. Sự thực, khi đại chúng coi thế
Phong như một phê bình gia vì suốt sản nghiệp tinh thần tác giả này, người ta
thấy hầu hết đều nghiêng về loại phê bình nhận định… Hơn nữa, tác phẩm được
nhiều người biết tới và cũng là tác phẩm đầu tay của nhà xuất bản ĐNVH là cuốn
LSVHVN, một bộ sách gồm 4 cuốn mang giá trị một công trình biên khảo công
phu. Còn nói rằng “coi thế Phong như một tiểu thuyết gia” thì hầu như không ai
lầm tưởng như vậy cả, có chăng cũng chỉ là một thiểu số quá ít oi không đáng
kể. Nếu chỉ cần có một số truyện ngắn mà trở thành tiểu thuyết gia thì quả là
quá dễ dãi, giản dị. Như vậy chắc Việt Nam là một nước có nhiều tiểu thuyết gia
nhất thế giới!
Ở
đây tôi đi vào thế giới tâm hồn Thế Phong cũng bằng tiếng thơ của ông, Nhưng
không phải vì muốn để độc giả nhìn thấy khía cạnh thi sĩ của Thế Phong hay vì
chỉ có “thơ của ông mới đủ tư cách và bảo đảm cho ông một ngôi vị xứng đáng
trong văn đàn dân tộc”. Nhưng tôi nghĩ: thơ là tiếng nói trung thực, tha thiết
nhất của một tâm hồn, được kết tinh bởi những cảm xúc, những dằn vặt, những suy
nghiệm của con người trước cuộc đời. Thơ là một cái gì vượt cao trên mọi bày
đặt giả tạo của một bối cảnh, một kỹ thuật bao gồm tình tiết, màn, cảnh…
Vì là tiếng nói của linh hồn nên âm hưởng vang vọng đi thẳng vào lòng người,
vào tình người, khi tiếng thơ đạt tới mức độ truyền cảm, rung động của nó.
Cho
nên, nếu không nhìn về khía cạnh lớn nhất thời, ảnh hưởng trực tiếp, hiện
ngay, mà chỉ muốn nhận diện vóc dáng đích thực khuôn-mặt-linh-hồn ẩn chìm
của một tác giả, tôi nghĩ không gì bằng đến với họ, đi vào vũ trụ tâm hồn họ
bằng tiếng nói linh hồn tức bằng cửa ngõ thi ca.
Hơn
nữa, nếu phân loại tác phẩm Thế Phong, người ta thấy số lượng thi phẩm
cũng chiếm một phần đáng kể.
Khởi
đầu là “Đàn bà với tổ quốc”, qua tới “Nếu anh có em làm vợ”, rồi “Vương miệng
Mai A”, “Sai biệt”, “Cho thuê bản thân”, “Trước mắt nhìn thi sĩ”. Và gần đây
“Thơ làm lớn dậy con người”. Điều đó chứng tỏ nồng độ đam mê nơi Thế Phong vẫn
nghiêng lệch về thi ca - vẫn là thơ, hay thơ vẫn là nguồn suối cuộn chảy, mãnh
liệt, sôi réo trong tiềm thức Thế Phong.
Những
người đọc báo ít biết thơ Thế Phong, phần vì ông ít đăng báo, phần vì tiếng thơ
thiếu quyến rũ, lôi cuốn của âm điệu, ngôn từ trong thơ ông lại không vụ ở sự
chải chuốt hào nhoáng, êm tai mà chỉ chuyên chú ý tới ý tưởng, tới những suy
tư, phơi bầy, những khao khát muốn thể hiện, những dằn vặt, ưu tư
muốn giải tỏ mà thôi. Chính sự khó khăn, khúc mắc này, đã khiến đám đông xa
lánh và quay lưng lại trước những tiếng gào thét, những vấn đề thiết yếu của
giá trị làm người. Tôi cam chắc, với một độc giả ở mức trung bình, hoặc quen
coi thơ để mong tìm thấy một phần nào kỷ niệm ái tình, một phần nào những cảm
xúc yêu đương mà họ đã trải qua hoặc đang khao khát thèm nếm, sẽ vô cùng thất
vọng khi đọc thơ Thế Phong. Họ không thể hiểu nổi cũng như không thể nào cảm
nổi tác giả với những câu thơ đại loại như:
chiếc
xe đạp dưỡng bệnh về nằm yên một chỗ
để cùng chủ nó nghe cô gái 18 tuổi phê bình về thơ
để cùng chủ nó nghe cô gái 18 tuổi phê bình về thơ
hay:
bệnh
lý hàng ngày nhiều hơn phép lạ
hiện tượng nào đưa đến cho tiếng thở dài chau mày suy tưởng
hiện tượng nào đưa đến cho tiếng thở dài chau mày suy tưởng
Dù
cho muốn nói đến cái thân phận bi đát, cái sự ô uế, phân rác của xã hội đang
khỏa lấp mặt nước trong suốt của cái tâm thánh thiện. Với lối diễn tả mà nhiều
người cho là cầu kỳ, lập dị đó, cũng ngăn trở, cản chắn không ít những tâm hồn nhiệt
thành muốn bước lại gần, soi dáng trong nguồn hứng thi ca của nhà thơ này, cũng
ngại ngần, định xét lại thái độ.
Chính
Thế Phong cũng nhìn nhận điều đó, nhưng ông quan niệm, không còn cách diễn tả
nào khác hơn trước một hiện tại bế tắc, đầy rẫy bất bình, nhàm chán tới độ muốn
tự tử, muốn nôn mửa, khạc nhổ vào cuộc đời điên loạn này. Giữa những bộ
mặt son phấn, trơ trẽn, thi nhau sắm tuồng, đóng kịch không những với đám đông,
mà còn đóng kịch phản bội chính lương tri của mình nữa. Những khuôn mặt lợm lì
chạy bám theo thị hiếu, thấp kém - thay vì hướng dẫn, nâng cao trình độ thưởng
ngoạn của đại chúng - của những tên con buôn văn nghệ, những tên hoạt đầu văn
hóa. Nên ông cố gắng giữ nguyên bản chất cũng như cố thể hiện ý
thức của người làm nghệ thuật là vạch một hướng đi, khai thông một lộ trình vào
tương lai, bằng tất cả lòng thành khẩn, cuồng tin nơi việc làm.
nên
tôi hiểu thơ văn triết lý của những thi sĩ làm
lớn dậy ngày mai chủ nghĩa đi lên của con người
đàn bà con gái đều ghét bỏ
lớn dậy ngày mai chủ nghĩa đi lên của con người
đàn bà con gái đều ghét bỏ
Khi
phẩm bình về tiếng thơ Thế Phong, có đôi người cho rằng ông là thi sĩ thuộc
phái hiện thực, hoặc xã hội… Với tôi, đó là một việc làm hết sức gượng ép, một
sự bắt chước thiếu cân nhắc, thận trọng. Bởi xã hội Việt Nam nói riêng và Đông
phương nói chung, người ta phải nhìn nhận một đặc tính cố hữu, một truyền thống
bất di dịch, đó là tinh thần tổng hợp, không phân rẽ, không hệ thống điều lệ gò
ép. Thứ nữa, cụ thể hơn, lịch sử văn nghệ Việt Nam chưa ghi nhận một khuôn
phép, một hệ thống phân định rõ rệt nào của những người làm văn nghệ để ta có
thể căn cứ vào đó mà khẳng định rằng nhà thơ này thuộc phái này, nhà văn kia
thuộc phái khác. Tôi cho rằng đó cũng là một trong những yếu tố tạo cho bộ mặt
văn chương đông phương thêm phong phú, thanh sắc. Ngày xưa chỉ có một Nguyễn Xuân
Sanh tính áp dụng một cách máy móc, rập khuôn theo thi phái Tượng Trưng của
Pháp, nhưng đã thất bại đáng thương hại * cuối cùng, cũng chẳng đem lại gì cho
vườn hoa văn nghệ chúng ta. Sau nữa, ta cũng nên nhắc tới một Nguyễn Vỹ, với
Tao Đàn Bạch Nga, nhưng nó chẳng ra phái gì cả, nó chỉ là một trò hề nhố nhăng,
quy tụ một số đàn em ngâm vịnh, tâng bấc, công kênh lẫn nhau, cũng như để vị
thủ lãnh dễ bề thỏa mãn bản tính háo danh, hảo ngọt mà thôi.
*Thí
dụ muốn diễn tả nước mắt trên mi một người con gái, phái này dùng 2 tiếng mi
sương
Ở
đây, tôi không muốn ép uổng tiếng thơ dũng mãnh, bạo cuồng của Thế Phong vào
một khuôn khổ hữu hạn. Vì không một khoảng trời nhỏ hẹp nào có thể dung chấp
nổi tiếng thơ giàn trải đủ mọi chiều hướng của nhà thơ này. Chính tâm hồn ông
cũng đã là cả một vũ trụ náo hoạt, gồm chứa đủ mọi suy tư, mọi khía cạnh nghịch
phản, nhận đón đủ mọi triều sóng tư tưởng cấp tiến âu tây, cộng chung với một
vốn liếng to tát, gồm những kinh nghiệm bản thân mua bằng nước mắt, bằng trên
ba chục năm chinh chiến, bằng tủi nhục, ê chề, khốn khó, của một thân xác nhược
tiểu điêu tàn.
“Tôi
lớn dậy mang đầy sương mù Việt Bắc
quê hương tôi cây đứng thẳng nhiều hơn chông rừng
người tình đầu đã bỏ tôi vào điểm giờ cách mạng 1945
núi rừng ơi nhớ mãi cũng bằng không
những cái nấp mô gồ ghề, hình ảnh cuộc đời không mềm như thạch trắng”.
quê hương tôi cây đứng thẳng nhiều hơn chông rừng
người tình đầu đã bỏ tôi vào điểm giờ cách mạng 1945
núi rừng ơi nhớ mãi cũng bằng không
những cái nấp mô gồ ghề, hình ảnh cuộc đời không mềm như thạch trắng”.
Ở
cao độ đam mê, tiếng nói linh hồn thi nhân như bước chân cô độc dã thú đi giữa
vùng biển cát. Thi nhân kiên nhẫn, âm thầm trong niềm hiu quạnh băng giá ngạo
mạn, tìm cho mình một ý nghĩa giữa cuộc sống phồn tạp, chênh vênh của tình
người, của cuộc đời, của hiện tại với một ý thức khai thoát, phát huy một nhân
bản mới không phải là thứ nhân bản ngụy tạo, mặc khoác làm duyên. Cho nên trước
bao nhiêu bội phản, thi nhân vẫn tìm về tình người và tin nơi tình người như
một tín đồ tìm về tôn giáo ngưỡng vọng:
Còn
gì nữa đâu em?
Thành phố cũ đôi mắt mới nhìn tôi vẫn khác lạ với mọi người trong thành phố quen
….
Thành phố cũ đôi mắt mới nhìn tôi vẫn khác lạ với mọi người trong thành phố quen
….
Tình
cảm vô cùng cần thiết như nhu cầu cơm áo
Không có em rồi anh mới thấy đời buồn nôn
Không có em rồi anh mới thấy đời buồn nôn
Mỗi
thi nhân, ngoài cái thể giới phức biệt của tâm hồn hiếu chân, hiếu thiện hay
hiếu mỹ, họ thường phải gánh vác ít nhiều mặc cảm, cái mặc cảm nhiều khi vô
cùng phi lý, không giải thích nổi! Thế Phong cũng không thoát khỏi định lệ khắc
nghiệt đó, ngoài cái dĩ vãng ấu thơ vướng vít sương mù Việt Bắc, cùng thảm
trạng gia đình rách nát, nhà thơ này còn bị cái mặc cảm bị phản bội, bị
ruồng rẫy lãng quên không những của người thân mà còn của cả bạn hữu, tôi không
muốn nói tới những người từng chia xẻ với ông một điếu thuốc, một nắm xôi, một
vài đồng bạc, khiến ông nhiều khi trở nên hoài nghi mất niềm tin trước
tất cả mọi giá trị tinh thần, ông cũng trở nên ngờ vực chính sự có mặt và giá
trị của con người mình:
Mỗi
lần tôi muốn làm ngơ rút đôi mắt sáng phản
ứng tự động rằng mình là một thằng hèn nhát
không dám đứng trước gương nhìn khuôn mặt đáng yêu
ở đâu và chỗ nào sự tự khinh mình cũng trỗi dậy
nên tôi lại dán ngươi tròn nhìn đời thẳng tắp
cả đống rác cả ruồi muỗi từng đàn theo ra ngoại ô
ứng tự động rằng mình là một thằng hèn nhát
không dám đứng trước gương nhìn khuôn mặt đáng yêu
ở đâu và chỗ nào sự tự khinh mình cũng trỗi dậy
nên tôi lại dán ngươi tròn nhìn đời thẳng tắp
cả đống rác cả ruồi muỗi từng đàn theo ra ngoại ô
Từ
mặc cảm dập vùi, phụ rẫy đó, thi nhân lao thân vào cuộc đời với nồng độ đam mê
cùng tột, ông tìm đến tình người, mặc dù biết rằng sự tự dâng hiến của mình sẽ
chỉ được đền bù bằng những tẻ lạnh, những vùi dập xua đuổi. Nhưng không còn
cách nào khác hơn nữa, thà đón nhận những mũi dao đâm chém xuống triền tâm hồn
tuyệt vọng để còn thấy mình, còn thấy có một ràng buộc, có một sự nhìn vào, ngó
tới để tự tạo một cõi trú tạm thời khoảng khắc giữa cái quen thuộc mòn nhẵn
không còn một ghi nhận sinh khí nào:
vẫn
là khách quen chào hỏi nhau bằng mắt nhìn
vẫn bồi bàn nhẵn mặt thuộc lòng thức gì khách uống
nhạc thính phòng bao vây tâm hồn cô quạnh
nhìn quanh tôi bạn bè cũ bỏ thành phố xa rồi
trời mưa thu sương mù nào lũng bản xa xăm
tôi đứng dậy góp hình hài mình làm tĩnh vật
vẫn bồi bàn nhẵn mặt thuộc lòng thức gì khách uống
nhạc thính phòng bao vây tâm hồn cô quạnh
nhìn quanh tôi bạn bè cũ bỏ thành phố xa rồi
trời mưa thu sương mù nào lũng bản xa xăm
tôi đứng dậy góp hình hài mình làm tĩnh vật
“góp
hình hài mình làm tĩnh vật” nỗi cô đơn khủng khiếp tưởng chừng như đã kết thành
khối, làm ta liên tưởng tới hình ảnh một hòn vọng phu, một thiếu phụ nằm sương
mà chinh phu ở đây là tình người, là một khung cảnh đời sống hạnh phúc no tròn
giữa những người mang thân xác người và tâm hồn người. Nhưng ao ước bao giờ
cũng chỉ là ao ước và khát khao chỉ là khao khát vô vọng mà thôi. Người ta vẫn
không ngớt nghe thấy những tiếng than dài, những réo gọi khản giọng trong tuyệt
vọng, trong tiêu sơ thảm đạm của thi nhân. Đau đớn và chua xót hơn nữa, khi nhà
thơ phải đối diện với ý thức sáng suốt về sự bất lực trước một định mệnh khe
khắt, một thân kiếp nhược tiểu tối tăm bên những thương tích quê hương nghèo
khó, rỉ máu tương tranh. Thi nhân không dừng được xót xa ngậm ngùi, ông liên
tiếp gióng lên những khúc bi ca nhược tiểu trường thiên trên sân khấu hài kịch
xã hội đổ nát. Ngày xưa, chúng ta đã hơn một lần xúc cảm trườc tiếng than nức
nở âm thầm vang vọng của cả một thế hệ khốn đốn mà thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã
ghi nhận: “lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ”. Thế hệ lạc lõng đó đã lùi dần vào
quá khứ cùng những đau thương của nó. Sân khấu nhược tiểu Việt nam nhường lại
cho thế hệ tiếp liên kế tục. Họ sống, họ múa may, đi đứng trong một cảnh trạng
mới, giai đoạn mới với những vấn đề mới được đặt ra cho họ, nhưng vẫn cùng
chung một không gian bi thương tủi nhục, nhục hờn. Là một trong những nạn nhân
bất đắc dĩ của thế hệ hiện đại, của lửa máu hôm nay, thi nhân cũng phải
thắc mắc, băn khoăn tự hỏi:
tôi
đã nhìn thấy gì ngoài những dây thép vòng xoáy móc máu phun
tôi đã nhìn thấy gì người thị thành ra phố buồn giới nghiêm
tôi đã nhìn thấy gì người nhược tiểu dân tộc đều là công an
tôi đã nhìn thấy gì áo mầu ka ki trận nhiều hơn thác lũ
ở ngã tư thành phố hôm nay áo đen nhiều hơn áo màu sặc sỡ
tôi đã nhìn thấy gì người thị thành ra phố buồn giới nghiêm
tôi đã nhìn thấy gì người nhược tiểu dân tộc đều là công an
tôi đã nhìn thấy gì áo mầu ka ki trận nhiều hơn thác lũ
ở ngã tư thành phố hôm nay áo đen nhiều hơn áo màu sặc sỡ
Giữa
cảnh huống bi đát, bi đát từ thân phận tới quê hương, tới tổ quốc, nhà thơ đã
rơi vào mặc thức lưu đầy, lìa xa sinh hoạt bình thường như muốn trốn chạy sự
thật, trốn chạy những dằn vặt, những âu lo tủi thẹn như đa số những nhà thơ
khác. Nhưng ở Thế Phong, con đường giải thoát lại ngược hẳn. Đó là thái độ phản
kháng, phá phách. Tính chất hiện sinh sôi động rạo rực trong tâm hồn thi nhân.
Ở Thế Phong người ta không tìm thấy cái tính chất hiện sinh làm dáng, vay
mượn ngụy tạo. Nếu dĩ vãng đủ để ta định giá cho hiện tại thì cuộc sống của ông
thừa đủ để bảo chứng cho tiếng thơ ông. Một tiếng thơ chất chứa đầy khắc khoải
ưu tư. Cũng bởi trung thành với sự thực, dù sự thực phũ phàng, nhơ bẩn, cũng vì
không muốn lừa đảo lương tri, phấn son thêu dệt cho tấn kịch xã hội nát rữa,
tiếng thơ Thế Phong nhiều khi trở nên sỗ sàng sống sượng, trần truồng:
Mày
có biết mày tự do vào buồng mẹ tao bắt nạt
tình mẫu thân được san sẻ qua cái vòng tay của mày
sự khôn khéo làm gì có để cho mày lên mặt mô phạm
tình mẫu thân được san sẻ qua cái vòng tay của mày
sự khôn khéo làm gì có để cho mày lên mặt mô phạm
những
câu thơ đại loại,người ta đã bắt gặp không ít, nhất là trong tập “thơ làm lớn
dậy con người” Tôi nghĩ, những nhà “đạo đức vỏ” tức bọn giả đạo đức, nếu đọc
đoạn thơ trên, chắc không phải nhăn mặt chau mày, sẽ không ngớt lời lên án tác
giả: kẻ phá hoại đạo đức luân thường bằng những lời lẽ thô tục… Nhưng sự
thực bao giờ cũng là sự thực. Xã hội ta càng ngày càng đầy rẫy những thảm trạng
xiêu đổ. Trước những tấn hài kịch đầy nước mắt tiếp diễn không ngừng quanh ông,
lòng tin nơi một đấng thiêng liêng, cứu rỗi cuộc sống đọa đầy này không hề thấy
dù phảng phất trong vũ trụ tâm hồn nhà thơ:
vì
xã hội nay nhiều ê chề nhục nhã
cho dẫu có lửa và nước
nhiều nhiều hơn hết thảy gột rửa biến tan
khởi thủy hình thành thiên nhiên
cái gì gọi là tạo hóa
cho dẫu có lửa và nước
nhiều nhiều hơn hết thảy gột rửa biến tan
khởi thủy hình thành thiên nhiên
cái gì gọi là tạo hóa
hoặc:
ở
đâu có ruồi là có thượng đế,
ở đâu có thượng đế là thanh niên có lứa đôi
ở đâu có thượng đế là thanh niên có lứa đôi
Bị
ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của NIETZCHE không những ông chỉ chấp nhận sự khai
tử từ thượng đế của NIETZCHE, ông còn đem thượng đế ra mỉa mai, riễu cợt, ông
ví thượng đế với đàn bà (câu trích dẫn trên) mà đàn bà thời đại này dưới mắt
ông chỉ là:
Một
chiếc mô tô huê kỳ đáng giá bẩy chục ngàn
xe hạc lây lao vút trên đường không biết nói
xe đàn bà hai xy lanh biết nói chỉ để lao vút lên giường
hai thứ này được trao đổi như truyện thần tiên
xe hạc lây lao vút trên đường không biết nói
xe đàn bà hai xy lanh biết nói chỉ để lao vút lên giường
hai thứ này được trao đổi như truyện thần tiên
Ý
nghĩ này ở thi nhân không có nghĩa tuyệt đối. Vì trong thơ ông, người ta vẫn
tìm gặp được một vài khuôn dáng, một vài chân dung đông phương thuần hậu, khả
ái, thỉnh thoảng lóe sáng trong tầm sâu vùng yên tĩnh tâm hồn. Tôi muốn nói ở
nhà thơ đập phá sỗ sàng này, vẫn còn có một niềm tin tiềm ẩn thu vén trong một
vài khuôn trang VN khả kính:
tôi
đem theo hình ảnh mẹ tôi xưa
tóc đuôi gà khuôn trang đầy đặn, da trắng bóng mầu trong suốt sương thu
miệng nam mô đi về phía quan thánh yên bái từ ba mươi năm ngoài để có tôi là con cầu tự, tôi hành hương với niềm nhớ người…
tóc đuôi gà khuôn trang đầy đặn, da trắng bóng mầu trong suốt sương thu
miệng nam mô đi về phía quan thánh yên bái từ ba mươi năm ngoài để có tôi là con cầu tự, tôi hành hương với niềm nhớ người…
hoặc:
một
bàn tay ngọc ngà cho anh buồn vui theo nét chữ
một lần nhìn âu yếm đủ cho anh tin cẩn cuộc đời
dù phải ghé vai lãnh đủ đời nằm gai nếm mật
thì ý nghĩ còn em có mặt làm anh vui lòng
một lần nhìn âu yếm đủ cho anh tin cẩn cuộc đời
dù phải ghé vai lãnh đủ đời nằm gai nếm mật
thì ý nghĩ còn em có mặt làm anh vui lòng
Theo
tôi, ở nhà thơ này, điểm nổi bật nhất là sắc diện khật khưỡng đi từ cô đơn đến
nổi loạn - từ đời sống đến thi ca - từ thi ca đến khát vọng cách mạng xã hội -
từ cách mạng xã hội tới luận lý nhân sinh - ngay với những giòng thơ tình cảm
yêu đương, người ta cùng soi thấy hay trực cảm một hệ thống luận lý ẩn lồng:
nội
tâm anh náo động từ khi có em ở bên
sự quấy nghịch làm đời sống hàng ngày anh thôi buồn
để thấy mình trẻ lại con trai 18
soi gương trong đôi mắt em đen giòng nước biếc
sự quấy nghịch làm đời sống hàng ngày anh thôi buồn
để thấy mình trẻ lại con trai 18
soi gương trong đôi mắt em đen giòng nước biếc
hoặc:
em
ơi tình duyên xưa bạc bẽo cũng hơn nhiều
chúng ta bỏ quá khứ vì chúng ta làm người tiến bộ
chúng ta bỏ quá khứ vì chúng ta làm người tiến bộ
Hơn
nữa ta có thể khẳng định: với Thế Phong, thơ là sản phẩm của ý thức bị dằn vặt
dồn nén cao độ - là sức đối kháng quyết liệt trước xã hội ung nhọt, trước
viễn tưởng suy sụp, bật gốc của những giá trị tinh thần của nề nếp truyền thống
dân tộc, trước cường lực sung mãn của văn minh vật chất… ông ôm hoài bão làm
mới xã hội, làm lớn dậy tâm hồn, phục vụ cho những giá trị tinh thần, tình cảm
thiêng liêng đang bị dày xéo, xô đạp dưới những bước chân dập dồn, cuốn trôi
của một hỗn trạng vong bản nô lệ.
Khát
vọng cao xa đó, đã đưa tiếng thơ Thế Phong chạm kể triết lý - thế giới
thi ca của ông không còn là thế giới của vần điệu âm vang ngọt ngào quyến rũ
của hình ảnh đẹp, của tình yêu huy hoàng như một Xuân Diệu hay gãy đổ bi thiết
như một Nguyễn Bính xưa - mà mỗi bài thơ của ông là một bản cáo trạng,
một tiểu luận về xã hội luận lý nên phần lớn thường khó hiểu, mặc dù ông đã vận
dụng tới những ngôn ngữ dung dị hầu làm sáng tư tưởng muốn diễn đạt, nhưng đôi
khi cũng không tránh khỏi sự tăm tối bí hiểm, gây cho lớp độc giả trung bình
muốn tìm vào vũ trụ tâm hồn nhà thơ gặp nhiều trở ngại, nhiều khó khăn, chán
nản:
ong
bầu về đây từ sáng sớm đầy vòi
đêm qua chú thắp đèn sáng chú học bài trong màn
chú nhăn mặt trước phút giây ong bầu gẫy cánh
để nhăn nhó khi ngón tay bị thương, con ong đồng bạn trả thù
chú bảo nó sẽ chết vì nọc độc truyền sang qua máu
nên chú phải băn khoăn tại sao nó đốt chú
đêm qua chú thắp đèn sáng chú học bài trong màn
chú nhăn mặt trước phút giây ong bầu gẫy cánh
để nhăn nhó khi ngón tay bị thương, con ong đồng bạn trả thù
chú bảo nó sẽ chết vì nọc độc truyền sang qua máu
nên chú phải băn khoăn tại sao nó đốt chú
Từ
đây, tôi nghĩ: nếu ai kia, nói rằng thơ Thế Phong là thơ của người lớn,
của những ai băn khoăn muốn tìm một ý nghĩa cho cuộc dời bần cùng, hữu hạn này
không phải là lời nói vội.
xã
hội nhược tiểu bi thảm chúng tôi
chức vụ gì cao hơn đỉnh chóp
tu sĩ còn là mật thám
thi nhân còn sản xuất phiếu thơ đặt hàng để
có xe hơi chạy nhanh hơn người đi bộ
chức vụ gì cao hơn đỉnh chóp
tu sĩ còn là mật thám
thi nhân còn sản xuất phiếu thơ đặt hàng để
có xe hơi chạy nhanh hơn người đi bộ
*
Như
cánh chim lần đầu tiên tung chiếc thân vào vùng trời cao rộng, ôm niềm khát
vọng tràn đầy trong tâm hồn trinh nguyên bằng đôi cánh tự tin và lòng thành
khẩn, thiết tha tin vào một thiên đường nhân bản, Thế phong đã lầm, đã thất
vọng, chua cay ngay từ khởi điểm - cánh chim đã nhiều lần rướm máu trước trăm
muôn làn tên cung thủ vút tới. Nhưng thành khẩnvới mình, thiết tha với đời, đắm
đuối mê say trong cái bập bềnh chới với của những ước vọng thầm kín giữa một
không gian tàn rữa, một tổ quốc chênh vênh khắc khoải, thi nhân dám nói lên
thực trạng và kêu gọi ý thức trỗi dậy vươn lớn của những kẻ còn quay lưng,
ngoảnh mặt, của những kẻ đã tách rời và bội phản quê hương, bội phản nòi giống
ai
từ bỏ đời sống căm hờn thiêu thân ngoài kia đó
giòng chữ nổi loạn giòng chữ giải độc
giòng chữ nào mang chính nghĩa
diễn biến sự thật thì không biết không nói như thằng câm
mà lòng tràn đầy hy vọng âm thầm
ngày mai tương lai tổ quốc tương lai đời sống cá nhân
giòng chữ nổi loạn giòng chữ giải độc
giòng chữ nào mang chính nghĩa
diễn biến sự thật thì không biết không nói như thằng câm
mà lòng tràn đầy hy vọng âm thầm
ngày mai tương lai tổ quốc tương lai đời sống cá nhân
Dù
muốn dù không, khuôn mặt linh hồn Thế Phong,soi qua thi ca của ông, cũng là
khuôn dáng độc đáo không ẩn lẫn, nhạt mờ với tất cả những gì tạo nên khoảng trời
Thế Phong, và chỉ của riêng Thế Phong mà thôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét