PHONG TRÀO TÂM CA (1965)
Lê Trương Biên Soạn
Vào năm
1965, cuộc diện chiến tranh Việt Nam thay đổi đột ngột. Lính ngoại quốc
bắt đầu đổ bộ lên Việt Nam, không lực Hoa kỳ khởi sự trút bom xuống miền
Bắc. Giữa lúc đó tại các đô thị miền Nam, một phong trào văn nghệ xuất
hiện, lôi cuốn các giới trí thức, già trẻ một cách mãnh liệt. Đâu đâu
cũng nghe người ta hát TÂM CA; hết đoàn thể này đến đoàn thể khác liên tục tổ chức những chương trình Tâm Ca.
Mọi người
say mê thở không khí Tâm Ca, dù là người Phật giáo, người Công giáo, dù
là người chống hay không chống chế độ Bắc Việt. Rồi qua những cuộc tranh
đấu, Tâm Ca trở thành một phong trào bao trùm nhiều giới quần chúng.
Chúng tôi gọi đó là phong trào TÂM CA PHẢN CHIẾN, chữ
phản chiến hiểu theo nghĩa không muốn chiến tranh, cho dù là loại chiến
tranh nào. Dựa vào hoàn cảnh lịch sử, dựa vào thái độ của người nghe,
người hát cũng như dựa vào âm nhạc và lời ca, chúng ta thử tìm hiểu ý
nghĩa của phong trào văn nghệ này như thế nào.
1. Ý nghĩa thứ nhất của phong trào này là thể hiện khát vọng Hoà Bình:
Kể từ năm
1965, nhạc Hoà Bình đã bắt đầu xuất hiện. Có điều đặc biệt là dường như
hai tiếng Hòa Bình không được nhắc tới trong lời ca tiếng hát. Bởi vì
trong giai đoạn này, giữa lúc Đồng minh đang tăng cường khả năng chiến
tranh thì hai chữ Hoà Bình trở thành hai chữ tối kỵ.
Người ta có thể bị vào tù nếu nói đến Hoà Bình, không phải là thứ Hòa
Bình dựa trên chiến tranh của chính phủ Mỹ-Việt. Nhưng chúng ta có thể
tìm thấy hai chữ Hoà Bình nấp một cách kín đáo, khéo léo trong những bài
Tâm Ca: Tôi ước mơ, Giọt mưa trên lá.
Tôi ước mơ (phổ thơ Nhất Hạnh) là bài ca được nhiều người ưa thích:
Sáng nay vừa thức dậy,
Nghe tin em ngục ngã nơi chiến trường!
Nhưng trong vườn tôi
Vô tình, khóm tường vi vẫn nở thêm một đóa.
Tôi vẫn sống, vẫn ăn và vẫn thở!
Nhưng biết bao giờ
Tôi mới được nói thẳng
Những điều tôi ước mơ?
(Tâm Ca 1)
Khát vọng
Hoà Bình được thể hiện rõ ràng trong câu cuối của bài ca. Người ta đã
hát như hô một khẩu hiệu, như gào lên một yêu sách: “Biết bao giờ, biết bao giờ tôi mới được, tôi mới được nói những điều tôi ước mơ”. Thật ra, nói như vậy là nói thẳng, nhưng nói thẳng một cách an toàn. Do đó, ai cũng mạnh nói và bài ca trở thành thịnh hành.
Giọt mưa trên lá
cũng thể hiện nguyện vọng Hoà Bình, nhưng điều đáng chú ý là chính nhạc
mưa và tình yêu đã nói lên những điều ước mơ đó. Đọc bài ca không đủ,
chúng ta còn phải nghe, nghe nhiều lần mới có thể thông cảm một cách
trọn vẹn:
Giọt mưa trên lá, nước mắt mẹ già
Lã chã đầm đìa trên xác con lạnh giá.
Giọt mưa trên lá, nước mắt mặn mà
Thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về.
(Tâm Ca 4)
Nhạc của bài ca này buồn như giáo đường, gợi lên một điều gì rất tha thiết nhưng gần như tuyệt vọng. Giọt mưa trên lá trở thành một bài thánh ca, một lời kinh cầu của những người khao khát Hoà Bình, nhưng những gì họ đang ước mơ thì còn xa quá.
Video: Pham Duy/ Steve Addis: http://www.youtube.com/watch?v=XpoZm3qSADA
2. Tính chất thứ hai của phong trào văn nghệ là thể hiện khát vọng thống nhất dân tộc:
Chiến tranh
xuất hiện trên thế gian này kể từ khi con người sống trong sự mâu thuẫn
giữa trắng đen, phải trái, xấu tốt, yêu ghét v.v…Nếu phá được sự mâu
thuẫn đối chọi đó, con người có thể ngồi gần nhau, sum họp nhau, đất
nước không còn chia lìa, lòng người không còn phân tán. Đó là một thứ
triết lý phản ảnh tâm trạng muốn thống nhất dân tộc mà không cần bất cứ
điều kiện nào. Chúng ta có thể tìm thấy tâm trạng đó của quần chúng đô
thị một cách rõ ràng trong những bài Tâm Ca: Ngồi gần nhau, Một cành củi khô, Để lại cho em.
Ngồi gần nhau là một bài ca đượm triết lý Phật giáo. Nhạc của nó cũng âm hưởng nhạc kinh Phật:
Ngồi gần, ngồi gần nhau,
Xin nói cho nhau một điều,
Ngồi gần ngồi gần nhau cho nhiều.
Ngồi vào một thế giới không xấu tốt buồn vui,
Ngồi vào niềm chơi vơi không có sắc màu phai.
Ngồi vào đời không mới,
Không rách nát tả tơi,
Một mình ngồi trong cái TA.
(Tâm Ca 3)
Giữa lúc
người ta đang nhân danh chính nghĩa này, chính nghĩa nọ để gây nên một
cảnh bom đạn tơi bời, với một lò sát sinh chưa từng thấy, một hận thù
tưởng chừng không bao giờ dứt được, thì cũng có những người phủ nhận mọi
lý do đó và kêu gọi con người hãy ngồi gần nhau, vai kề vai, đầu tựa
đầu :
Ngồi vào niềm yêu dấu
Hay giữa mối thù sâu
Mình vào ngồi đây với nhau.
Bài ca Để lại cho em cũng phản ảnh sự vô điều kiện trên một cách nồng nhiệt hơn nữa : Các
anh để lại cho em cuộc sống mệt nhoài, hồn nước tả tơi, cuộc đời quanh
co lạc lối, hèn kém, tội lỗi. Để lại cho em một nước phân lìa, một giống
nòi chia. Hận thù nhân danh chủ nghĩa, bạo tàn vênh vang bề thế. Để lại
cho em giọt máu dân lành, để lại cho em từng nắm mồ xanh, để lại cho em
một bãi chiến trường.
Gia tài các
anh để lại cho em là như thế đó. Để lại cho em một nỗi oán hờn, lẻ ra là
như vậy. Nhưng không, trái lại đâu đâu chúng ta cũng có thể nghe những
người trẻ cất cao lời ca :
Nhưng em thương anh thương anh,
Cho súng phải giật mình,
Nhưng em thương anh thương anh
Cho tàu bay khóc với
Nhưng em thương anh thương anh
Cho lựu đạn im tiếng
Nhưng em thương anh thương anh
Cho đường vũ khí qua tim.
(Tâm Ca 5)
Thái độ của
họ là như vậy thì cuộc chiến tranh này có ý nghĩa gì nữa. Sự phân chia
đất nước, sự chống đối anh em đâu còn lý do để tồn tại. Sao cũng được:
Miễn là chúng ta ngồi được gần nhau, thương nhau; khi thương trái ấu cũng tròn, miễn là chúng ta đừng giết nhau nữa mà thống nhất, sum họp một nhà.
3. Đặc tính thứ ba của phong trào là thể hiện khát vọng chấm dứt chém giết, tôn trọng con người:
Giữa
lúc người ta đang dốc toàn khả năng chiến tranh cơ khí để tiêu diệt
“Việt cọng, Việt bắc’’ để “giành” lại tự do cho nhân dân miền Nam (!),
thì chính tại miền Nam lại nổi lên một phong trào chống đối, tố cáo cái
hành động mà họ gọi là một cuộc “chiến tranh bẩn thỉu”. “Kẻ thù của chúng ta không phải là con người, dù con người Việt cọng. Giết người đi rồi, chúng ta ở với ai?”. Đó là hai câu thơ của Thầy Nhất Hạnh, một tu sĩ Phật giáo.
Hai câu thơ này là đề tài của một bài Tâm Ca rất thịnh hành:
Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai?
Người người ơi! Yêu mến người mãi mãi!
Người người ơi! Yêu mến người không nguôi.
(Tâm Ca 7)
Như vậy, Tâm Ca đã trở thành tiếng nói của người dân các đô thị, tạo nên một phong trào văn nghệ phản chiến rất mạnh.
4. Nói về Nguyên nhân hình thành của phong trào:
Phạm Duy thời viết Tâm Ca, Đạo Ca
Một câu hỏi
rất quan trọng được đặt ra là: Tại sao mọi người không kể khuynh hướng
chính trị, tôn giáo đều hưởng ứng phong trào ca hát này? Điển hình là
chính Phạm Duy, người của chế độ, có lý tưởng phục vụ chế độ này, lại cũng là người sáng tác, phổ nhạc và ca hát say sưa Tâm Ca phản chiến.
Nói đến
phong trào là nói đến những hiện tượng lịch sử, cho nên muốn giải thích
phong trào Tâm Ca, chúng ta không thể không dựa trên những yếu tố lịch
sử cũng như dựa trên thực trạng chiến tranh Việt Nam trong những ngày
xảy ra phong trào. Lịch sử Việt Nam là lịch sử của một nước bị xâm lăng
rất nhiều lần, với một nghìn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc
Tây, người Việt không thể không nghi ngờ ngoại bang. Sự nghi ngờ này đã
trở thành một mặc cảm, tưởng chừng như ngoại bang sẵn sàng xâm lăng
nước mình. Do đó, việc lính ngoại quốc đổ bộ lên đất nước Việt Nam là một tin sét đánh vào tâm hồn người Việt. Việc không lực Hoa kỳ trút bom xuống giải đất Việt Nam này cũng là một tin sét đánh vào tâm hồn người Việt.
Giải pháp nào có sự nhúng tay của ngoại bang
đều là một mối lo ngại trong thâm sâu của tâm hồn người Việt, cho dù là
những người đang chống đối người Việt Cộng sản. Mọi người đều cảm thấy
bây giờ lập trường chính trị không thể giải tỏa được cái mặc cảm bị xăm
lăng của họ và hoàn cảnh xã hội cũng không cho phép họ nói những điều mà
họ mơ hồ cảm thấy. Do đó, con đường tôn giáo trở thành một lối thoát, giúp họ thể hiện cái khát vọng chấm dứt những tình trạng trái với tâm hồn họ:
‘‘Kẻ thù ta đâu có phải là người,
Giết người đi thì ta ở với ai ? ’’
‘‘Giọt mưa trên lá, tiếng nói thì thầm
Bóng dáng Phật về xóa vết thương trần thế.
Giọt mưa trên lá, tiếng nói tinh khôi
Lúc Chúa vào đời xin đóng đinh vì người ’’.
Họ không tin ngoại bang có thể mang lại Hòa Bình cho dân tộc Việt, họ thấy cái cảnh ‘‘tránh vỏ dưa, đạp vỏ dừa’’
lần lần hiện ra trước mắt. Không biết bao giờ cuộc tàn sát này chấm dứt
? Chấm dứt rồi bao giờ ngoại bang mới chịu rút lui ? Tình trạng chiến
tranh như thế này liệu có ngăn nổi Trung cọng đổ quân vào không ? Tất cả
những câu hỏi đó đè nặng tâm hồn người Việt :
‘‘Biết bao giờ tôi mới được nói thẳng những điều tôi ước mơ’’ : bao nhiêu lo âu, thất vọng đều nằm trong câu nói đó.
- ‘‘Biết bao giờ’’ tức là cái thời gian không nằm trong dự tính.
- ‘‘Nói những điều ước mơ’’ vẫn chưa phải là đạt được những điều ước mơ.
‘‘Biết bao giờ tôi mới được nói thẳng những điều tôi ước mơ ?
Biết bao giờ em tôi không còn ngã gục nơi chiến trường’’.
Trước những ưu tư, dằn vặt đó, người dân đô thị đã tiến tới một giải pháp : Thôi hãy xóa bỏ mọi ý nghĩ của một cuộc nội chiến
để ngoại bang mất lý do tràn ngập đất nước. Họ muốn quên đi tất cả
những mâu thuẫn, dị biệt để mọi người có thể ngồi gần nhau, ngồi vượt
lên những gì hạn hẹp, tầm thường của con người :
Ngồi vào niềm yêu dấu hay giữa mối thù sâu,
Mình vào ngồi đây với nhau…
Nhưng em thương anh, thương anh,
Cho súng phải giật mình,
Nhưng em thương anh, thương anh,
Cho tàu bay khóc với…
Chúng ta có thể kết luận: Phong trào Tâm Ca là phản ứng đầu tiên
của quần chúng đô thị trước sự hiện diện của quân đội ngoại quốc và sự
chủ động chiến tranh của họ trên đất nước Việt Nam này. Dù Tâm Ca đượm
tính chất tôn giáo, nhưng phong trào Tâm Ca không thể hiện một sự chạy trốn hèn nhát của quần chúng đô thị vì không dám đối diện với chiến tranh.
Trái lại,
khi tiếng hát đã kết thành phong trào thì phong trào Tâm Ca mang một ý
nghĩa chính trị hoàn toàn bất lợi cho chính sách leo thang chiến tranh
của ngoại bang, trong đó có Hoa kỳ. Do đó, những chính khách Hoa kỳ phản
công lại bằng cách cướp lời ca, tiếng hát đó, mua chuộc tác giả những bài Tâm Ca đứng về phía họ, cùng với họ hát nhạc phản chiến. Chúng tôi gọi đó là ‘‘chiếc đủa phù thủy chính trị’’.
5. Âm mưu tiêu diệt phong trào:
Thật vậy,
phong trào Tâm Ca càng ngày càng lên cao, tiếng nói hòa bình phản chiến
càng ngày càng mạnh mẽ không những tại Việt Nam mà còn tại nhiều nơi
trên thế giới, nhất là tại Hoa kỳ với một bài Tâm Ca vĩ đại hơn tất cả
các bài Tâm Ca nhân loại: đó là lửa tự thiêu của Morrison.
Phong trào
này mang một ý nghĩa chính trị hoàn toàn bất lợi cho chính sách chiến
tranh của Hoa kỳ tại Việt Nam. Do đó những nhà chính trị Hoa kỳ vội khua
chiếc đủa phù thủy tiêu diệt những lời ca tiếng hát đó.
Phạm Duy thời kháng chiến
Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Duy
Link: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Duy
Họ mời Phạm Duy qua Mỹ để hát Tâm Ca, Kháng Chiến Ca. Phạm Duy đã rơi vào cái cạm bẩy chính trị
đó. Phạm Duy ra đi không phải mang tâm trạng một chiến sĩ với một sứ
mạng quan trọng là vào đất người dùng Kháng Chiến Ca thể hiện sức mạnh
vô địch của dân tộc Việt Nam làm cho mọi người phải kính sợ, dùng Tâm Ca
đánh vào lương tâm nhân loại làm cho họ bừng tỉnh đứng lên cùng chúng
ta tranh đấu cho tự do, hòa bình. Trái lại, Phạm Duy ra đi với tâm trạng
của một người bạn, một đồng minh của Hoa kỳ và cũng được coi như một
người bạn quý, một người có những rung cảm như những rung cảm của người
Hoa kỳ trước cuộc chiến tranh Việt Nam.
Phân tích khía cạnh những âm mưu chính trị, sự kiện trên bao hàm ba ý nghĩa quan trọng:
a. Ý nghĩa
thứ nhất là chính phủ Mỹ muốn chứng minh cho nhân dân Việt Nam và nhân
dân Mỹ là chính sách của họ trong cuộc chiến tranh Việt Nam không ngoài
ước vọng tự do, hòa bình của dân tộc Việt Nam. Chính sách này cũng không
phải là chính sách thực dân xâm lược, nhằm tạo chiến tranh để trục lợi,
vì vậy họ tán đồng Kháng Chiến Ca của nhân dân Việt Nam trong cuộc
chống đối thực dân Pháp cũng như họ rất yêu thích Tâm Ca phản chiến. Vì
vậy mà họ quý Phạm Duy, mời Phạm Duy. Ngược lại, Phạm Duy, một nhạc sĩ
vĩ đại của nhân dân Việt Nam cũng thấy thiện chí đó nên nhận lời mời của
họ, đứng về phía họ.
b. Ý nghĩa
thứ hai của âm mưu chính trị trên là: Dĩ nhiên những người Việt trong
phong trào Tâm Ca không bao giờ đồng quan điểm chiến tranh của người Mỹ
tại Việt Nam. Do đó hể Mỹ thích Tâm Ca, thì họ không thích nữa, hể Mỹ
hát thì họ không hát, hể Mỹ vổ tay tán thưởng thì họ vội vàng im lặng,
và khi họ im lặng, tức là khi phong trào Tâm Ca chìm xuống, tiêu tan.
c. Ý nghĩa
thứ ba của âm mưu chính trị trên nhằm giết chết Phạm Duy. Phạm Duy là
một nhạc sĩ tài ba của Việt Nam. Trong giai đoạn nào của lịch sử cũng có
mặt Phạm Duy với những tác phẩm có khả năng tạo nên những phong trào
văn nghệ dân tộc. Phạm Duy đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng
trong ba phong trào văn nghệ lớn nhất: Đó là phong trào Kháng Chiến Ca, phong trào Dân Ca, và phong trào Tâm Ca phản chiến. Cái nhược điểm của Phạm Duy là ở chỗ yếu đuối, hay dao động. Cái đặc tính của người Việt là hay ‘‘khinh tài trọng nghĩa’’,
cho nên nếu khai thác được hai khía cạnh đó bằng cách mời Phạm Duy
viếng Hoa kỳ là đủ giết chết Phạm Duy, trừ được tác dụng của những bài
Kháng Chiến Ca, Tâm Ca phản chiến và cũng trừ được những hậu quả sau
này.
Phạm Duy đã ra đi. Cái đêm đánh dấu sự tiễn đưa Phạm Duy, tiễn đưa Tâm Ca ra đi có lẽ là đêm văn nghệ Tưởng niệm Nhất Chi Mai tại Tổng vụ Sinh viên Phật tử. Đêm ấy, buổi lễ diễn ra trong một bầu không khí trang nghiêm đứng đắn.
Thực ra, đó
chỉ là một hình thức tranh đấu cho Hoà bình của quần chúng đô thị. Cái
chết của Nhất Chi Mai là một loại Tâm Ca mới, một sức mạnh mới cho cuộc
đấu tranh:
Chị ngã xuống rồi, triệu người u uất
Và rùng rùng dân tộc đứng lên theo
(thơ Trần Quang Long, Link : http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/62715/Nho-Tran-Quang-Long.html )
Đêm hôm đó,
Phạm Duy cũng có tới tham dự. Phạm Duy lên sân khấu trong chiếc áo
pu-lô-vơ màu vàng nhạt, chiếc quần xám may sát và cây đàn ngoại quốc
sang trọng. Phạm Duy hát bài ‘‘Tôi ước mơ’’ : ‘‘Biết bao giờ, biết bao giờ tôi mới được nói thẳng những điều tôi ước mơ’’ và Phạm Duy kết thúc bài hát bằng một tiếng hét to : ‘‘Hết’’ và bằng nụ cười tươi vui như ngày nào.
Và,
cái giây phút đó đã đến. Khán giả không nhiệt tình vỗ tay tán thưởng
như mọi khi nữa. Nhiều tiếng phản đối xì xào nổi lên. Phạm Duy đã làm
mất cái vẻ trang nghiêm, căng thẳng, đầy chiến đấu tính của buổi lễ
tưởng niệm Nhất Chi Mai. Lần đó, Phạm Duy chỉ hát một bài và không được
yêu cầu hát nữa. Chúng ta có thể nói giai đoạn Tâm Ca kết thúc từ đây, với tất cả cay đắng mà mỗi người trong chúng ta cần suy ngẫm lại.
LÊ TRƯƠNG
(Hội Sinh viên sáng tác Sài Gòn /1970)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét